PHƯƠNG ÁN Phòng, chống hạn vụ Đông Xuân 2014 – 2015
Hệ thống công trình thuỷ lợi do Công ty TNHH MTV ĐTPT thuỷ lợi Sông Đáy quản lý, khai thác để phục vụ tưới, tiêu nước cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh kinh tế của 6 quận, huyện chủ yếu: Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông, Thanh Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức; một phần quận Bắc Từ Liêm, huyện Phú Xuyên và huyện Thường Tín thuộc Thành phố Hà Nội. Tổng diện tích lưu vực trên 60.000 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 30.343 ha. Vùng hệ thống phục vụ có vị trí địa lý: Phía Bắc giáp sông Hồng, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Đông giáp Công ty TNHH MTV ĐTPT thuỷ lợi Sông Nhuệ, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình.
PHẦN I: ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHỐNG HẠN VỤ ĐÔNG XUÂN 2013 - 2014.
Vụ Đông Xuân 2013-2014 có tổng diện tích đất canh tác trên toàn hệ thống Công ty ĐTPT thuỷ lợi Sông Đáy phục vụ là 37.836 ha, trong đó: vụ Đông 2013 là 7.945 ha. vụ Xuân 2014 là 29.891 ha (Kể cả Nuôi trồng thủy sản và Cây ăn quả, hoa, cây dược liệu … cả năm), riêng lúa: 24.279 ha.
Công tác phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân 2013- 2014 đã diễn ra trong điều kiện thời tiết khô hanh kéo dài. Những tháng cuối năm 2013 thời tiết có mưa đáng kể, thuận lợi cho công tác tưới vụ Đông 2013. Sang tháng 1 và tháng 2 năm 2014 hầu như không có mưa, thời tiết khô hanh kéo dài gây khó khăn cho công tác tưới ải vụ Xuân 2014. Từ cuối tháng 3 thời tiết đã có mưa, lượng mưa đáng kể và phân bố tương đối đều, thuận lợi cho công tác tưới dưỡng vụ Xuân 2014. Tổng lượng mưa bình quân vụ Xuân năm 2014 là 331 mm bằng 120% so với vụ Xuân 2013 (Lượng mưa trung bình các tháng vụ Xuân 2014 toàn Công ty: Tháng 1: 0,0mm; Tháng 2: 2,8mm; Tháng 3: 47,1mm; Tháng 4: 192,1mm; Tháng 5: 89,0mm). Về nguồn nước, bước vào thời kỳ tưới ải, mực nước các hồ chứa như: Đồng Sương, Miễu (huyện Chương Mỹ); Quan Sơn (huyện Mỹ Đức) đều đạt xấp xỉ thiết kế, nhưng khi bắt đầu tưới dưỡng mực nước xuống thấp. Mực nước trên các sông Nhuệ, sông Đáy, sông Bùi, sông Tích thấp không đảm bảo yêu cầu. Đối với sông Hồng, thời kỳ tưới ải mực nước thấp nhưng được bổ sung 3 đợt xả nước các hồ thuỷ điện với tổng số 17 ngày [Đợt 1: Từ ngày 14/01 ¸ 18/01 (05 ngày); Đợt 2: Từ ngày 26/01 ¸ 30/01 (05 ngày); Đợt 3: Từ ngày 08/02 ¸ 14/02 (07 ngày) ] nên việc cấp nước tưới ải vụ Xuân 2014 có thuận lợi hơn. Từ cuối tháng 3, do có mưa đang kể trên diện rộng nên mực nước các hồ chứa và các triền sông tăng lên đáng kể thuận lợi cho công tác tưới dưỡng vụ Xuân 2014.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND Thành phố và Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, Công ty ĐTPT thuỷ lợi Sông Đáy đã sớm triển khai chiến dịch làm thuỷ lợi mùa khô từ đầu tháng 10 năm 2013; tiến hành kiểm tra hệ thống công trình, tiếp tục sử dụng các công trình chống hạn phát huy hiệu quả trong những năm trước, điều chỉnh, bổ sung xây dựng và triển khai các giải pháp chống hạn đảm bảo đủ nước tưới cho 24.279 ha lúa vụ Xuân 2014.
Qua quá trình triển khai thực hiện công tác chống hạn, Công ty nhận thấy những việc đã làm được và còn tồn tại một số vấn đề như sau: *) Những việc đã làm được:
- Trạm bơm dã chiến Bá Giang được lắp đặt đưa vào vận hành từ năm 2010; tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc bơm nước đổ ải, tưới dưỡng cho vụ Đông Xuân 2013-2014 cho trên 5.697 ha diện tích đất canh tác thuộc địa bàn các huyện Đan Phượng và Hoài Đức; ngoài ra còn tiếp nước hỗ trợ vùng ven Đáy cho trên 3.500 ha đất canh tác của quận Hà Đông, phía Bắc huyện Thanh Oai và huyện Chương Mỹ;
- Trạm bơm tưới Cao Xuân Dương tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc bơm nước đổ ải, tưới dưỡng cho 1.531 ha diện tích đất canh tác của huyện Thanh Oai, ngoài ra còn cấp nước hỗ trợ cho khoảng trên 2.000 ha thuộc vùng ven sông Nhuệ, vùng trung tâm, vùng phía Bắc của huyện Thanh Oai, bằng cách lắp đặt các trạm bơm cấp 2 (TBDC N9, Ước Lễ, Quế Sơn . . .). Trạm bơm tưới Cao Bộ đã hoàn thành đưa vào vận hành từ đầu năm 2011, chủ động bơm nước tưới cho 1.014 ha đất canh tác của các xã phía Bắc huyện Thanh Oai. Trạm bơm Nhân Hiền đã hoàn thành đưa vào vận hành từ đầu năm 2011 chủ động bơm nước tưới cho 782 ha đất canh tác của các xã phía Đông Nam huyện Thanh Oai.
- Thực hiện sớm việc tu sửa các công trình chống hạn, lắp đặt các trạm bơm dã chiến, nạo vét các cửa cống lấy nước, bể hút các trạm bơm, kênh cấp 1 và 2; tổ chức bơm nước sớm (từ 10/12/2013) để trữ vào các kênh tiêu, ao, đầm, ruộng trũng . . .
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra kịp thời giải quyết các phát sinh trong quá trình thực hiện: Đề xuất với UBND T.P Hà Nội cho lắp đặt bổ sung cho Trạm bơm DC Bá Giang 05 tổ máy loại 980 m3/h, nâng tổng số lên 30 tổ máy bơm loại 980 m3/h để nâng cao năng lực phục vụ chống hạn; đắp đập Đại Từ trên Sông Đáy để nâng cao mực nước bể hút đảm bảo cho TB Chi Lăng 1 vận hành; lắp đặt thêm 01 tổ máy 540 m3/h TBDC N9 để tăng cường hỗ trợ cho TB tưới Cao Bộ; tập trung tiếp nước vào Sông Đáy trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ để giải quyết tình trạng thiếu nước đổ ải cho 950 ha lúa (Hà Đông: 160 ha, Thanh Oai: 430 ha, Chương Mỹ: 360 ha).
- Phối hợp, đôn đốc các HTXNN nạo vét thông thoáng các tuyến kênh nội đồng, củng cố bờ vùng, bờ thửa. *) Những tồn tại, hạn chế:
- Một số địa phương chưa quan tâm sâu sát công tác chống hạn, xem nhẹ việc quản lý nước trên kênh, việc củng cố bờ vùng bờ thửa để giữ nước mặt ruộng nên thất thoát nước tưới xuống kênh tiêu gây lãng phí.
- Một số địa phương vẫn còn tập quán cấy muộn chưa được khắc phục, mặc dù đã có chỉ đạo của UBND các quận, huyện và ý kiến đề nghị của Công ty như các xã: Tân Hội, Tân Lập (huyện Đan Phượng); Kim Chung, Di Trạch (huyện Hoài Đức). Một số khu vực còn lấy nước vào ruộng nhưng không làm đất nên phải lấy nước nhiều lần mới cày cấy được, gây lãng phí và ảnh hưởng đến tiến độ của toàn hệ thống. Mặt khác, trong điều kiện nguồn nước khó khăn, ngoài thời thời gian xả nước của các hồ thuỷ điện thì việc cấp nước tưới càng khó khăn hơn;
- Việc gieo mạ phân tán của rất nhiều đơn vị dùng nước đã gây lãng phí về nước tưới.
- Công tác chỉ đạo, điều hành ở một số nơi còn chưa quyết liệt, chưa có những biện pháp có hiệu quả để đẩy nhanh tiến độ đưa nước, gieo cấy . . .
- Công tác dồn điền đổi thửa của một số huyện như Mỹ Đức, Thanh Oai và Chương Mỹ làm thay đổi một số tuyến kênh nội đồng do địa phương quản lý, trong đó có vị trí bất cập chưa điều chỉnh làm giảm hiệu quả tưới, tiêu phục vụ sản xuất.
PHẦN II: PHƯƠNG ÁN PHÒNG, CHỐNG HẠN VỤ ĐÔNG XUÂN 2014-2015
I. Đặc điểm tình hình về thời tiết và dự báo nguồn nước tưới: 1. Diễn biến thời tiết từ đầu năm 2014 đến nay: 1.1 Tình hình mưa:
Theo số liệu quan trắc tại các vị trí trên toàn Công ty quản lý, tổng lượng mưa bình quân tính đến ngày 13/10/2014 là 1.361,5mm, bằng 89,2% so với cùng kỳ năm 2013 và bằng 90,4% so với trung bình nhiều năm. 1.2 Mực nước tại các sông, hồ:
- Mực nước sông Hồng và các sông còn lại trong hệ thống (sông Đáy, sông Nhuệ, sông Bùi, sông Tích) tại thời điểm hiện nay nhìn chung đều ở mức thấp. Số liệu quan trắc vào ngày 13/10/2014: sông Hồng tại Liên Mạc: +2.69/+2.57m (năm 2013: +2.70/+2.67m, MN min: +3,00); sông Nhuệ tại Đồng Quan: +1.59/+1.57m (năm 2013: +1.62/+1.60m; Theo quy trình vận hành hệ thống, mực nước thượng lưu cống đầu vụ Xuân giữ từ +3.34¸ +3.56 m); sông Bùi tại Trí Thuỷ: +1.32m (năm 2013: +2.11m; MN yêu cầu ³ 0.90m); sông Đáy tại La Khê: +2.50/+2.25 (năm 2013: +2.45/+2.20m; MN min bể hút thiết kế TB La Khê + 2.08m).
- Các hồ chứa nước đã trữ đủ dung tích thiết kế, song dung tích hữu ích hiện tại thấp thua nhiều do lòng hồ bị bồi lắng. Số liệu quan trắc vào ngày 13/10/2014: hồ Đồng Sương: +18.20 (MNC: +11,50; Ñtràn: +18,20; dung tích 10,5 triệu m3); hồ Văn Sơn: +19.50 (MNC: +12,50; Ñtràn: +19,50, dung tích: 7 triệu m3); hồ Miễu: +39.50 (MNC: +33,0; Ñtràn: +39,50, dung tích 2,5 triệu m3); hồ Quan Sơn: +5.45 (MNC:+3,00; Ñtràn: +5,50, dung tích 11,9 triệu m3); 1.3 Dự báo tình hình nguồn nước vụ Đông Xuân 2014 - 2015: *) Thời tiết:
- Lượng mưa mùa khô năm 2014-2015 có khả năng thiếu hụt so với TBNN cùng thời kỳ. *) Thuỷ văn:
- Trong vụ Đông Xuân 2014-2015, nguồn nước thượng lưu hệ thống sông Hồng có khả năng sẽ ở mức nhỏ hơn TBNN từ 10-55%. Thời gian nguồn nước thiếu hụt nhiều nhất từ tháng 11/2014 đến tháng 02/2015. Hạ lưu hệ thống sông Hồng trong các tháng từ 11 đến 12/2014 sẽ thiếu hụt so với TBNN từ 24-39%. Từ tháng 01-02/2015, do bổ sung cấp nước tăng cường từ các hồ thủy điện lớn phục vụ đổ ải, nguồn nước hạ lưu sông Hồng sẽ nhiều hơn từ 16-28%.
- Do ảnh hưởng của El Nino, mùa lũ 2014 có khả năng kết thúc sớm và dòng chảy sẽ suy giảm nhanh từ tháng 9 năm 2014. Dòng chảy các sông ở Bắc Bộ trong vụ Đông Xuân 2014-2015 có khả năng nhỏ hơn TBNN; cần đề phòng tình trạng thiếu nước, khô hạn ở các sông Bắc Bộ tương tự vụ Đông Xuân 1986-1987. 2. Kế hoạch gieo cấy vụ Đông Xuân 2014-2015: 2.1 Kế hoạch và thời vụ gieo trồng trên địa bàn Công ty đảm nhận:
- Vụ Đông năm 2014: Diện tích gieo trồng 13.369 ha (Số liệu Kế hoạch).
- Vụ Xuân năm 2015: Tổng diện tích canh tác: 30.343 ha (Kể cả Nuôi trồng thủy sản và Cây ăn quả, hoa, cây dược liệu … cả năm). Trong số đó diện tích gieo cấy lúa: 24.483 ha lúa (DT tưới: 21.815 ha); 2.2 Thời vụ:
- Năm nay Lập Xuân vào ngày 04/02/2015 (tức là ngày 16/12/2014 Âm lịch).
- Đối với trà lúa Xuân sớm (Từ ngày 04/02 đến 08/02) toàn Công ty là 4.945 ha, đạt 20%. Trong đó: Đan Phượng: 150 ha, đạt 10%; Hoài Đức: 205 ha, đạt 10%; Hà Đông: 210 ha, đạt 30%; Thanh Oai: 1.990 ha, đạt 30%; Chương Mỹ: 1.090 ha, đạt 17%; Mỹ Đức: 1.300 ha, đạt 20%.
- Đối với trà lúa Xuân chính vụ (Từ ngày 08/02 đến 28/02) cơ bản cấy xong trong tháng 02/2015; đối với một số xã như: Tân Hội, Tân Lập (huyện Đan Phượng); Kim Chung, Di Trạch (huyện Hoài Đức) kết thúc cấy muộn hơn (khoảng 10/3/2015).
- Diện tích cấy trước Tết Nguyên Đán Ất Mùi (Mùng 1 Tếtvào ngày 19/02/2015 dương lịch) phấn đấu toàn Công ty là 16.765 ha, đạt 68%. Trong đó: Đan Phượng: 690 ha, đạt 45%; Hoài Đức: 920 ha, đạt 45%; Hà Đông: 555 ha, đạt 80%; Thanh Oai: 5.300 ha, đạt 80%; Chương Mỹ: 4.420 ha, đạt 63%; Mỹ Đức: 4.880 ha, đạt 75%. 3. Những thuận lợi và khó khăn: 3.1 Thuận lợi:
- UBND Thành phố Hà Nội cùng các Sở, Ngành đã quan tâm đầu tư kinh phí để tu sửa, cải tạo, nâng cấp các công trình thuỷ lợi bị hư hỏng xuống cấp phục vụ chống hạn, úng năm 2015 bằng các nguồn vốn. Tính đến nay khối lượng tu sửa công trình do Công ty được giao quản lý đạt giá trị 32,25 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
+ 09 công trình được đầu tư bằng nguồn vốn khấu hao TSCĐ năm 2014 với kinh phí là 10,70 tỷ đồng (Khối lượng chủ yếu: Đất đào đắp: 11.342m3; Gạch xây: 717m3; Bê tông các loại: 696m3; Thép các loại: 14.496 kg; tổ bơm đồng bộ loại HL 980-9: 05 tổ)
+ 103 công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tu sửa thường xuyên và sửa chữa lớn TSCĐ năm 2014 với kinh phí là 21,55 tỷ đồng (Khối lượng chủ yếu: Đất đào đắp: 22.893 m3; Gạch xây: 418,3m3; Bê tông các loại: 861,4m3; Thép các loại: 65.780 kg; ống bơm: 247 ống; vòng bi: 263 cái; cáp điện: 993m; trục bơm: 30 chiếc)
- Những năm gần đây tình trạng hạn nặng liên tiếp xảy ra trên hệ thống thuỷ nông do Công ty ĐTPT thuỷ lợi Sông Đáy quản lý, các giải pháp chống hạn đã được triển khai có hiệu quả, kinh nghiệm tổ chức chống hạn đã được tích luỹ, cùng với việc các công trình ngày càng được quan tâm đầu tư tu sửa, công tác phòng, chống hạn sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả tốt đối với vụ Đông Xuân 2014-2015.
- Chiến dịch nạo vét thuỷ lợi nội đồng mùa khô hàng năm đã hỗ trợ đắc lực trong việc đảm bảo cấp nước tưới kịp thời cho các vụ sản xuất nông nghiệp trong năm mà trước tiên là vụ Đông Xuân 2014-2015.
- Lãnh đạo của đa số các quận, huyện, các xã trong hệ thống thường xuyên quan tâm chỉ đạo sát sao và có sự phối hợp chặt chẽ với Công ty.
- Trạm bơm dã chiến Bá Giang đã phát huy hiệu quả trong việc cấp nước đổ ải, tưới dưỡng cho 5.899 ha đất canh tác thuộc địa bàn huyện Đan Phượng, Hoài Đức; ngoài ra còn cấp nước hỗ trợ vùng ven Đáy cho trên 3.500 ha đất canh tác của quận Hà Đông, phía Bắc huyện Thanh Oai và huyện Chương Mỹ;
- Trạm bơm tưới Cao Xuân Dương, Cao Bộ, Nhân Hiền (huyện Thanh Oai) đã phát huy hiệu quả trong việc cấp nước đổ ải, tưới dưỡng cho toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Oai; 3.2 Khó khăn:
- Việc điều tiết các hồ thủy điện sẽ khó khăn do thiếu hụt nên mực nước sông Hồng tại Hà Nội đạt ở mức thấp. Để lấy nước phải triển khai nhiều biện pháp: Lắp đặt các trạm bơm dã chiến, đắp các đập tạm, triển khai các máy bơm dầu mới đủ nước trong giai đoạn đổ ải. Khi tưới dưỡng, không còn điều tiết của các hồ thủy điện, mực nước sông Hồng thấp, việc cấp nước tưới gặp rất nhiều khó khăn.
- Việc Trạm bơm Đan Hoài ngừng vận hành bơm tưới bắt đầu từ cuối tháng 10/2012 để thi công cải tạo, nâng cấp làm giảm đáng kể năng lực cấp nước cho hệ thống, cũng là khó khăn không nhỏ cho công tác chống hạn.
- Một số tuyến kênh mương bị hư hỏng, xuống cấp chưa đủ kinh phí đầu tư làm giảm hiệu quả dẫn nước tưới. Tình trạng vi phạm công trình: đổ rác thải xuống lòng kênh, đào phá, lấn chiếm bờ kênh còn xảy ra ở nhiều nơi và công tác giải tỏa các vi phạm còn nhiều hạn chế; trục chính Sông Nhuệ đã được đầu tư cải tạo nhưng chưa đồng bộ nên còn nhiều ách tắc và tổn thất cột nước đáng kể; quá trình đô thị hóa nhanh và công tác dồn ô đổi thửa chưa đồng bộ gây khó khăn khi dẫn nước tưới.
- Việc lắp đặt các trạm bơm dã chiến ở khu vực xa dân cư gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý, khai thác và vận hành;
- Một số trạm bơm tưới được xây dựng từ những năm 70 của thế kỷ trước nên đã già cỗi, xuống cấp, hiệu suất và hiệu quả phục vụ thấp; còn nhiều tuyến kênh tưới cấp 1, 2 vẫn là kênh đất nên việc dẫn nước gặp nhiều khó khăn;
- Tập quán gieo cấy của một số địa phương thuộc huyện Đan Phượng, Hoài Đức qua nhiều năm thường muộn và lệch pha với lịch điều tiết nước của các hồ thuỷ điện, chính vì vậy cũng làm khó khăn cho Công ty. 4. Diện tích hạn có thể xảy ra:
Căn cứ vào dự báo về nguồn nước và mực nước các sông, hồ trong khu vực, dự kiến vụ Đông Xuân 2014-2015 trên toàn hệ thống có 1.913 ha lúa có khả năng bị thiếu nước (chiếm 8,8%), gồm các quận, huyện sau đây:
- Huyện Đan Phượng: 472 ha/1.528 ha (chiếm 31%), lấy nước sông Hồng (chủ yếu ở các vùng cao cục bộ và xa Kênh chính Đan Hoài);
- Huyện Hoài Đức: 458 ha/2.051 ha (chiếm 22%), lấy nước sông Hồng (chủ yếu ở các vùng cao cục bộ và xa Kênh chính Đan Hoài);
- Quận Bắc Từ Liêm: 12 ha/55 ha (chiếm 22%), lấy nước sông Hồng (chủ yếu ở các vùng cao cục bộ và xa Kênh chính Đan Hoài);
- Huyện Mỹ Đức: 971 ha /5.072 ha (chiếm 19%), lấy nước hồ Quan Sơn (chủ yếu các xã: Phù Lưu Tế, Hồng Sơn, Hợp Tiến, Hợp Thanh, An Tiến, Tuy Lai và Xuy Xá). II. Mục tiêu và những giải pháp chủ yếu: 1. Mục tiêu:
- Phát huy năng lực các công trình hiện có, kinh nghiệm chống hạn trong những năm qua, chủ động đối phó với các tình huống, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại xảy ra;
- Phấn đấu cấp đủ nước cho 13.369 ha cây vụ Đông năm 2014 và 30.343 ha đất canh tác vụ Xuân 2015 (trong đó diện tích tưới lúa là: 21.815 ha), đảm bảo gieo cấy trong khung thời vụ tốt nhất. 2. Giải pháp chung:
- Thực hiện tiết kiệm nguồn nước tưới của các hồ chứa khi tưới cây vụ Đông và làm mạ, tập trung để tưới vụ Xuân 2015. Với các khu tưới của các hồ chứa có khả năng thiếu nước để đổ ải và tưới dưỡng, cần tăng cường vận hành các trạm bơm lấy nước từ sông Bùi, sông Đáy để hỗ trợ; dùng các máy bơm dã chiến và máy bơm dầu bơm trực tiếp nước từ kênh tiêu, ao, hồ, suối, lạch . . .
- Thực hiện có hiệu quả chiến dịch làm thuỷ lợi nội đồng mùa khô 2014, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc nạo vét kênh dẫn, bể hút các trạm bơm tưới, nạo vét các trục tiêu để trữ nước chống hạn, giải phóng ách tắc trên các tuyến kênh mương; tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị cơ điện, công trình thuỷ công; chuẩn bị các vật tư, thiết bị để lắp đặt các trạm bơm dã chiến, các trạm bơm quay vòi tưới, đắp các đập tạm theo phương án phòng chống hạn của từng Xí nghiệp Đầu tư phát triển thuỷ lợi trực thuộc. Thời gian xong trước 15/12/2014.
- Ngay từ cuối tháng 11/2014 tiến hành bơm tiếp nước vào Sông Đáy bằng Trạm bơm dã chiến Bá Giang; bơm trữ nước vào các tuyến kênh tiêu, ao hồ đầm ruộng trũng và các khu vực không trồng cây vụ Đông để phục vụ chống hạn vụ Xuân năm 2015. Phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan trong việc tiếp nước sông Đáy. Tập trung tiếp nước cho những vùng cao, xa trong dịp Tết Nguyên đán. 3. Giải pháp chủ yếu cho từng khu vực: 3.1 Vùng tưới Đan Hoài: Diện tích tưới lúa 3.669 ha, nguồn nước lấy từ sông Hồng. *) Công trình trạm bơm phục vụ tưới gồm có:
Tổng số: 12TB với 68 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 78.200m3/h, công suất lắp đặt 2.292 Kw. Trong đó:
- TB cố định: 11TB với 38 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 48.200m3/h, công suất lắp đặt 1.302Kw;
- TB dã chiến: 1TB với 30 máy bơm loại 1.000m3/h; tổng lưu lượng bơm tưới: 30.000m3/h, công suất lắp đặt: 990 Kw; *) Các công việc đã và đang thực hiện:
- Tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị cơ điện, công trình thuỷ công, đảm bảo đưa vào vận hành phục vụ sản xuất;
- Lắp đặt TBDC Bá Giang để đưa vào vận hành bơm nước phục vụ sản xuất, phấn đấu xong trước ngày 30/10/2014. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện duy trì như vụ Xuân năm 2014 trở lên: Triển khai bơm nước sớm bằng TBDC Bá Giang từ ngày 01/01/2015 và bơm liên tục không nghỉ Tết Nguyên đán phục vụ chống hạn cho vùng tưới Đan Hoài là đảm bảo, đồng thời tiếp nước hỗ trợ vùng ven Đáy của quận Hà Đông, phía Bắc huyện Thanh Oai và huyện Chương Mỹ. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện không thực hiện được như vụ Xuân năm 2014 (Mực nước Sông Hồng tại bể hút TBDC Bá Giang tiếp tục xuống thấp đến mực nước min thiết kế là +0.5m): Khi đó TBDC Bá Giang không thể vận hành được, lúc này phải chấp nhận chuyển đổi một số diện tích cấy lúa sang cây trồng khác. Dự kiến diện tích chuyển đổi là 206 ha đều thuộc huyện Đan Phượng, chủ yếu vùng bãi Tiên Tân.
*) Kiến nghị: - Đề nghị UBND các huyện Đan Phượng và Hoài Đức chỉ đạo các xã triển khai gieo cấy trùng với lịch xả nước các hồ thuỷ điện, đồng thời chuẩn bị các máy bơm dầu dã chiến để sẵn sàng phối hợp với Công ty trong việc bơm nước chống hạn. Số lượng dự kiến: 67 tổ máy bơm loại 15CV (Đan Phượng: 40 tổ; Bắc Từ Liêm: 01 tổ ; Hoài Đức: 26 tổ)
- Đề nghị UBND huyện Đan Phượng và Hoài Đức quan tâm chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với một số vùng khó khăn về nước tưới. 3.2 Vùng tưới La Khê: Diện tích tưới lúa 7.265 ha, nguồn nước lấy từ sông Nhuệ, sông Đáy. *) Công trình trạm bơm phục vụ tưới gồm có:
Tổng số: 42TB với 126 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 203.120m3/h, công suất lắp đặt 6.059Kw. Trong đó:
- TB cố định: 31TB với 108 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 185.120m3/h, công suất lắp đặt 5.465Kw;
- TB dã chiến: 11TB với 18 máy bơm các loại; tổng lưu lượng bơm tưới: 18.000m3/h, công suất lắp đặt: 594Kw; *) Các công việc đã và đang thực hiện:
- Tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị cơ điện, công trình thuỷ công, đảm bảo đưa vào vận hành phục vụ sản xuất. Đối với việc đắp các đập tạm trên các tuyến kênh La Khê, Khê Tang, và Yên Cốc, phấn đấu xong trước ngày 30/11/2014.
- Lắp đặt các TBDC để đưa vào vận hành bơm nước phục vụ sản xuất, phấn đấu xong trước ngày 30/11/2014. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện duy trì như vụ Xuân năm 2014 trở lên: Vận hành sớm các trạm bơm La Khê, Cao Bộ đồng bộ với lịch bơm tiếp nước của TBDC Bá Giang để cấp nước cho gần 3.000 ha đất canh tác của các xã phía Bắc huyện Thanh Oai và các phường thuộc quận Hà Đông. Trạm bơm tưới Cao Xuân Dương tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc bơm nước đổ ải, tưới dưỡng cho 1.531ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Oai, ngoài ra còn cấp nước cho khoảng trên 2.000 ha thuộc vùng ven sông Nhuệ, vùng trung tâm, phía Bắc của huyện Thanh Oai, bằng cách lắp đặt các trạm bơm cấp 2 (TBDC N9, Ước Lễ, Quế Sơn . . .). Trạm bơm Nhân Hiền chủ động bơm nước tưới cho 782 ha đất canh tác của các xã phía nam huyện Thanh Oai. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện không thực hiện được như vụ Xuân năm 2014 (Mực nước Sông Hồng tại bể hút TBDC Bá Giang tiếp tục xuống thấp đến mực nước min thiết kế là +0.5m): Khi đó TBDC Bá Giang không vận hành được, việc tiếp nước xuống sông Đáy cũng sẽ tạm dừng, khi đó TB tưới Cao Bộ sẽ thiếu nguồn nước. Lúc này phải vận hành một số TBDC để hỗ trợ cho TB tưới Cao Bộ: TB DC N9 (3 máy 1000 m3/h + 1 máy 540 m3/h, được cấp nước bằng TB DC Phương Trung 2 và TB tưới Cao Xuân Dương) cấp nước cho các HTX NN: Thị trấn Kim Bài, Đỗ Động, Thanh Mai, Bình Minh, Thanh Cao thuộc huyện Thanh Oai; TBDC Điều tiết Bình Đà (gồm 1 máy 1.000m3/h, được cấp nước bằng TBDC N9) cấp nước cho vùng cao của các HTX NN: Bình Minh, Thanh Cao thuộc huyện Thanh Oai. Đối với các vùng lấy nước bằng sông Nhuệ, khi mực nước thấp sẽ vận hành các TBDC, ngoài ra nguồn nước còn được bổ sung bằng các TB tưới Cao Xuân Dương và TBDC Phương Trung 1 đổ xuống kênh Yên Cốc để tạo nguồn cho các TB phục vụ tưới. Trường hợp không hỗ trợ được cho TB tưới Cao Bộ thì phải chấp nhận chuyển đổi một số diện tích cấy lúa sang cây trồng khác. Dự kiến diện tích chuyển đổi là 726 ha, trong đó: quận Hà Đông: 226 ha; huyện Thanh Oai: 500 ha chủ yếu các xã phía Bắc và ven sông Nhuệ như: Cự Khê, Bích Hoà, Cao Viên, Thanh Cao, Bình Minh, Mỹ Hưng . . . *) Kiến nghị:
- Đề nghị Công ty ĐTPT thuỷ lợi Sông Nhuệ tiến hành nạo vét thống thoáng sông La Khê đoạn từ Cầu Am đến bể hút TB La Khê. - Đề nghị UBND quận Hà Đông, huyện Thanh Oai chỉ đạo các xã, phường triển khai chiến dịch làm thủy lợi nội đồng mùa khô năm 2014; tiến hành gieo cấy trùng với lịch xả nước của các hồ thuỷ điện; tranh thủ bơm nước trữ vào các tuyến kênh tiêu, ao hồ đầm ruộng trũng và các khu vực không trồng cây vụ Đông; chuẩn bị các máy bơm dầu, bơm điện dã chiến để sẵn sàng phối hợp với Công ty trong việc bơm nước chống hạn; yêu cầu đơn vị Cenco5 khẩn trương thi công các công trình thuỷ lợi bị thay đổi do làm đường giao thông để phục vụ chống hạn đặc biệt là tuyến kênh Sái. 3.3 Vùng tưới Chương Mỹ: Diện tích tưới lúa 5.810 ha, nguồn nước lấy từ sông Đáy, sông Tích, sông Bùi và các Hồ chứa nước. *) Công trình trạm bơm phục vụ tưới gồm có:
Tổng số: 27TB với 74 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 81.840m3/h, công suất lắp đặt 2.661Kw. Trong đó:
- TB cố định: 22TB với 67 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 74.840m3/h, công suất lắp đặt 2.430Kw;
- TB dã chiến: 5TB với 07 máy bơm các loại; tổng lưu lượng bơm tưới: 7.000m3/h, công suất lắp đặt: 231Kw; *) Các công việc đã và đang thực hiện:
- Tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị cơ điện, công trình thuỷ công, đảm bảo đưa vào vận hành phục vụ sản xuất. Đối với việc đắp lại đập tạm Mai Lĩnh, Đại Từ và Hoàng Diệu, phấn đấu xong trước ngày 15/11/2014 để đảm bảo giữ nước trên Sông Đáy phục vụ chống hạn.
- Quản lý, điều hành tốt các cống điều tiết quan trọng như: Hạ Dục, Đồng Trữ, Yên Duyệt, An Vọng … để giữ nước trên các tuyến kênh tiêu phục vụ chống hạn. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện duy trì như vụ Xuân năm 2014 trở lên: Vận hành sớm các trạm bơm lấy nước từ sông Đáy (Phụng Châu, Biên Giang, Chi Lăng 1, Chi Lăng 2, Hoàng Diệu) đồng bộ với lịch bơm tiếp nước của TBDC Bá Giang để cấp nước cho 2.500 ha đất canh tác của các xã ven Đáy. Các trạm bơm ven sông Tích, sông Bùi hoạt động kịp thời; trạm bơm Đông Sơn bơm tiếp nước cho vùng ven Đáy bằng cách đổ nước xuống kênh Thập Cửu. Điều tiết nước các hồ chứa hợp lý, hiệu quả thì có thể đảm bảo được việc cấp nước đổ ải, tưới dưỡng cho các diện tích gieo cấy như năm 2014. Khi mực nước sông Đáy xuống quá thấp không đảm bảo mực nước cho TB Chi Lăng 1 và Hoàng Diệu vận hành cần lắp đặt máy bơm dã chiến tại bể hút các TB này để bơm nước từ lòng sông vào. Khi mực nước sông Tích xuống thấp, không đảm bảo mực nước bể hút cho TB Đông Sơn vận hành tối đa số máy, cần triển khai ngay việc đắp đập dâng tại cầu Tân Trượng. *) Trường hợp lịch xả nước các hồ thuỷ điện không thực hiện được như vụ Xuân năm 2014 (Mực nước Sông Hồng tại bể hút TBDC Bá Giang tiếp tục xuống thấp đến mực nước min thiết kế là +0.5m): Khi đó TBDC Bá Giang không vận hành được, việc tiếp nước xuống sông Đáy cũng sẽ tạm dừng, như vậy phải chấp nhận chuyển đổi một số diện tích cấy lúa sang cây trồng khác. Dự kiến diện tích chuyển đổi là 500ha, chủ yếu các xã vùng ven sông Đáy như: Phụng Châu, Tiên Phương, Chúc Sơn, Thuỵ Hương, Lam Điền, Hoàng Diệu, Ngọc Hoà, Đại Yên, Hợp Đồng thuộc huyện Chương Mỹ và phường Biên Giang thuộc quận Hà Đông . . . *) Vùng các hồ chứa nước Miễu, Văn Sơn, Đồng Sương: Diện tích tưới lúa 978 ha
Đây là vùng đồi gò, địa hình phức tạp nên việc phục vụ tưới gặp khó khăn chỉ đảm bảo cấp đủ nước thời kỳ đổ ải, bước vào thời kỳ tưới dưỡng nguồn nước hồ cạn nên cần phải có kế hoạch mở nước hợp lý.
- Đối với hồ Miễu: Khi mực nước hồ thấp, không lấy nước tự chảy được (Ñđáy cống: +33.0m), cần lắp đặt 01 máy bơm điện loại 1.000m3/h tại cống lấy nước để bơm nước từ trong lòng hồ vào kênh tưới.
- Đối với hồ Văn Sơn: Khi mực nước hồ thấp, không lấy nước tự chảy được (cống số 1: Ñđáy cống: +13.0m; cống số 2: Ñđáy cống: +12.5m), cần lắp đặt 02 máy bơm điện loại 1.000m3/h bơm nước từ khu Ao Đào ra cống số 1 tưới cho xã Tân Tiến, đồng thời đào kênh tại khu Đốc Khau dẫn nước ra cống số 2 tưới cho xã Hoàng Văn Thụ. Mặt khác, vận hành Trạm bơm Chùa Giao (lấy nước từ sông Bùi) để cấp nước cho các trạm bơm tưới của HTX Hoàng Văn Thụ như: Yên Trình, Cầu Tây.
- Đối với hồ Đồng Sương: Khi mực nước hồ thấp, không lấy nước tự chảy được (Ñđáy cống: +12.5m) cần lắp đặt 02 máy bơm điện loại 1.000m3/h để bơm nước trong lòng hồ ra cấp cho các xã trên địa bàn. Mặt khác, vận hành các trạm bơm tưới như: Chợ Sẽ, Ba Ông Bếp, tưới Đầm Mới, Sông Đào (đều lấy nước từ sông Bùi) để cấp nước tưới hỗ trợ.
*) Kiến nghị: - Đề nghị UBND huyện Chương Mỹ chỉ đạo các xã lấy nước các hồ chứa tưới cây vụ Đông hợp lý, tiết kiệm; thực hiện tốt chiến dịch làm thủy lợi nội đồng mùa khô năm 2014; gieo mạ tập trung; tăng cường quản lý việc đưa nước đổ ải, tưới dưỡng cho lúa; tranh thủ bơm nước trữ vào các tuyến kênh tiêu, ao hồ đầm ruộng trũng và các khu vực không trồng cây vụ Đông; chuẩn bị các máy bơm dầu, bơm điện dã chiến để sẵn sàng phối hợp với Công ty trong việc triển khai bơm nước chống hạn.
- Đề nghị Công ty thuỷ lợi Sông Tích quan tâm đến việc tiếp nước cho Sông Tích. 3.4 Vùng tưới Mỹ Đức: Diện tích tưới lúa 5.072 ha, nguồn nước lấy từ sông Đáy, sông Mỹ Hà và các Hồ chứa nước. *) Công trình trạm bơm tưới gồm có:
Tổng số: 32TB với 71 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 76.300m3/h, công suất lắp đặt 2.393Kw. Trong đó:
- TB cố định: 32TB với 71 máy bơm các loại, tổng lưu lượng bơm tưới: 76.300m3/h, công suất lắp đặt 2.393Kw; *) Các công việc đã và đang thực hiện:
Tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị cơ điện, công trình thuỷ công, đảm bảo đưa vào vận hành phục vụ sản xuất; *) Đối với diện tích lấy nước từ các hồ chứa: Diện tích tưới lúa mà hồ chứa nước Quan Sơn đảm nhận là 2.450 ha.
Hồ Quan Sơn tuy đã đạt mực nước thiết kế nhưng chỉ đảm bảo thời kỳ đổ ải, còn thời gian tưới dưỡng lượng nước còn thiếu phải dùng các trạm bơm ven Đáy (Đức Môn, Áng Thượng, Tân Độ, DC Đại Nghĩa) đưa nước vào các tuyến kênh: kênh 7 xã phía Bắc (N7), kênh Bình Lạng, kênh Phù Lưu Tế … , sau đó dùng các trạm bơm dã chiến và máy bơm dầu để bơm nước vào ruộng; *) Kiến nghị: - Đề nghị UBND huyện Mỹ Đức chỉ đạo các xã lấy nước hồ Quan Sơn tưới cây vụ Đông hợp lý, tiết kiệm; gieo mạ tập trung; tăng cường quản lý việc đưa nước đổ ải, tưới dưỡng cho lúa; tranh thủ bơm nước trữ vào các tuyến kênh tiêu, ao hồ đầm ruộng trũng và các khu vực không trồng cây vụ Đông; chuẩn bị các máy bơm dầu, điện dã chiến để sẵn sàng phối hợp với Công ty trong việc triển khai bơm nước chống hạn (số lượng dự kiến: 67 tổ máy bơm loại 15CV).
PHẦN III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Chấp hành mọi chủ trương, lệnh chỉ đạo trong công tác chống hạn của cấp trên;
- Tiến hành ký kết hợp đồng tưới, tiêu, cấp nước vụ Xuân năm 2015 xong trong tháng 12/2014;
- Thực hiện tốt việc tu sửa công trình, máy móc, thiết bị để chủ động phục vụ bơm, dẫn nước đổ ải và tưới dưỡng;
- Chuẩn bị lực lượng, vật tư dự phòng để sẵn sàng triển khai phương án phòng chống hạn trong điều kiện khó khăn nhất xảy ra;
- Ban chỉ đạo chống hạn của Công ty thường xuyên quan tâm chỉ đạo các Xí nghiệp ĐTPT thuỷ lợi trực thuộc, phối hợp chặt chẽ với các địa phương, các đơn vị dùng nước để việc cấp nước tiết kiệm, hiệu quả;
PHẦN IV: ĐỀ NGHỊ, KIẾN NGHỊ.
1. Đối với Thành phố Hà Nội:
- Đề nghị Chính phủ, các Bộ, Ngành sớm có kế hoạch điều tiết các hồ thuỷ điện phù hợp với thời gian đổ ải và đầu thời kỳ tưới dưỡng;
- Đề nghị UBND Thành phố quan tâm xem xét đầu tư kinh phí để tu sửa, cải tạo, nâng cấp các công trình thuỷ lợi bị hư hỏng xuống cấp phục vụ chống hạn vụ Xuân 2015, trong đó quan tâm đầu tư kinh phí nạo vét lòng sông Đáy và mở cống Cầm Đình, Hiệp Thuận vào các đợt xả nước hồ thủy điện.
- Chỉ đạo Ngành điện có kế hoạch cấp điện ổn định cho việc đổ ải, tưới dưỡng lúa Xuân 2015.
- Đề nghị UBND Thành phố quan tâm chỉ đạo các địa phương hoàn thành chương trình dồn điền đổi thửa, trong đó quan tâm hoàn chỉnh hệ thống công trình thuỷ lợi nội đồng và phần nối tiếp với các công trình do các Công ty thuỷ lợi quản lý.
- Đề nghị UBND Thành phố cho cải tạo, nâng cấp các trạm bơm tưới đã được xây dựng quá lâu, đến nay đã bị xuống cấp nghiêm trọng; đồng thời quan tâm đầu tư kiên cố hoá các tuyến kênh tưới cấp 1, 2. 2. Đối với các quận, huyện, xã trên địa bàn:
- Đề nghị các quận, huyện phối hợp chặt chẽ với Công ty trong việc thống nhất lịch gieo cấy, bơm nước phục vụ đổ ải, tưới dưỡng lúa Xuân năm 2015 (kể cả trữ nước vào trong đồng); chỉ đạo sát sao việc gieo mạ tập trung để tránh lãng phí nước, đặc biệt các địa phương ở vùng hồ chứa nước như huyện Chương Mỹ và Mỹ Đức; chỉ đạo việc chuyển đổi cây trồng hợp lý đối với những diện tích khó khăn về nước tưới;
- Đề nghị huyện Đan Phượng, Hoài Đức chỉ đạo các xã trên địa bàn có kế hoạch sản xuất sớm hơn để tránh phải dẫn nước vào ruộng nhiều lần, gây lãng phí nước;
- Đề nghị UBND các huyện, xã xử lý kiên quyết các đối tượng vi phạm công trình thuỷ lợi (CCTL); mặt khác tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nhân dân tự giác bảo vệ CCTL, không đổ rác thải xuống các tuyến kênh mương;
- Đề nghị UBND huyện, xã chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp sớm làm chiến dịch thuỷ lợi nội đồng, tu sửa máy móc, thiết bị đối với các công trình do địa phương quản lý; chủ động huy động máy bơm dầu hỗ trợ trong trường hợp hạn hán khốc liệt xảy ra;
Trên đây là toàn bộ phương án phòng chống hạn vụ Đông Xuân 2014 - 2015 của Công ty TNHH MTV ĐTPT thuỷ lợi Sông Đáy, kính đề nghị Lãnh đạo UBND Thành phố, các Sở, Ngành tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ để Công ty hoàn thành nhiệm vụ được giao ./.
Đăng bình luận