Bác Hồ với sự nghiệp Thủy lợi
Ngày 17/5/2012, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 122 ngày sinh Bác Hồ, Hội Khoa học thủy lợi TP HCM tổ chức hội thảo khoa học “Bác Hồ với công tác thủy lợi”.
Nhân dịp này, NNVN xin giới thiệu bài viết của ông Phan Khánh, kỹ sư cao cấp của ngành thủy lợi đã nghỉ hưu về những điều mắt thấy, tai nghe về Bác Hồ trên đại công trường thủy nông Bắc Hưng Hải hơn 50 năm về trước.
Ông Phan Khánh nhớ lại những ngày làm thủy nông Bắc Hưng Hải
Sau hơn 1 tháng chuẩn bị công trường, hôm ấy đã hoàn tất để chuẩn bị đón hơn 3 vạn lao động khởi công khu đầu mối Bắc Hưng Hải, gồm xây cống Xuân Quan, đập điều tiết Báo Đáp và kênh trong, kênh ngoài, dài tổng cộng trên 5 km.
Dân làng Xuân Quan, Cửu Cao đã phải cắt đi 150 ha lúa mùa vừa chớm trổ về cho trâu ăn. Gần 150 hộ nhà gạch, lò gốm làng cổ Bát Tràng đã được rời sang làng mới Giang Cao, cách đó chừng hơn cây số. Mất đi cái cổ kính nhưng được cái khang trang thuận lợi hơn, vì có quy hoạch hẳn hoi. Hàng chục vạn m2 lán trại cũng đã tươm tất. Dãy lán dành cho bộ máy, công trường kéo dài gần cây số từ Xuân Quan ngược phía cầu Long Biên, xếp làm ba dãy trên mái để phía đồng.
Hôm ấy ngày nghỉ chuẩn bị khởi công, nhiều người về Hà Nội hoặc về thăm nhà.
Buổi trưa vắng lặng, chúng tôi lớp tham dự thủy lợi đầu tiên của chế độ XHCN đang sắp ngủ trưa. Bỗng có tiếng thầm thì, “Bác đến! Bác đến!” Mọi người có mặt trong các lán, rùng rùng chạy dưới mái đê hướng theo chiếc “mốt cô vít” màu sữa đang từ từ lăn bánh trên mặt đê cho đến quãng trống, dành cho hiện trường đào móng cống Xuân Quan thì dừng lại.
Mọi người cùng tự động chen ngồi sát nhau trên mái đê. Từ xe bước ra một cụ già, quần áo lụa nâu, mũ cát rộng vành, chân dép lốp tiến đến. Vài tiếng hô: Hồ Chủ tịch muôn năm vừa tự động cất lên thì Bác đã tươi cười giơ tay ngăn lại. Không báo trước, không có một chút nghi thức cờ hoa, khẩu hiệu, giới thiệu… Nhưng nghiêm trang và đầm ấm lạ.
“Các cô, các chú và các cháu công trường thân mến”.
Tôi không nhớ nguyên văn từng lời, nhưng những vấn đề để Bác nói đã thấm vào lòng không thể nào quên.
Trước hết, Bác nhắc nhở chúng tôi phải biết ơn dân 2 làng Xuân Quan và Cửu Cao, đã hy sinh hàng trăm tấn thóc cơm sắp vào miệng mà phải hy sinh vì quyền lợi của hơn hai triệu nhân dân Bắc Hưng Hải. Bà con Bát Tràng rời bỏ cơ đồ tổ tiên cả nghìn năm sang làng mới cũng vì vậy. Bác động viên chúng tôi phải biết ơn và hết lòng hết sức làm thật tốt để đúng ngày 6/1/1959 mở được nước sông Hồng vào đồng.
Bác dành nhiều thì giờ phê bình chúng tôi về cách tổ chức nơi ăn chốn ở. Còn mất vệ sinh nhất là nơi rìa đê giáp mặt ruộng. Bỗng bác hỏi: “Ở đây đã có nhà tắm cho phụ nữ chưa?”. Toàn công trường ngớ ra, quả là chưa ai nghĩ tới. Đàn ông thì ra sông Hồng, đàn bà ít người đành chờ đến đêm khiêng nước vào bếp. Bác dặn dò phải bảo đảm vệ sinh và an toàn cho dãy lán chuyên gia. Cuối cùng, Bác chỉ tay vào dãy lán công trường Bộ “Bà Hỏa không nương tay cho các chú đâu…”. Bác nói giờ đang mưa nhưng sẽ đến lúc khô hanh, phải chú ý phòng hỏa hoạn.
Trời nắng hanh, lúc Bác mới đến có cô cán bộ công trường dương sẵn dù định che nắng cho Bác. Nhưng người bảo xếp lại để xuống mặt đê rồi ra chỗ đông để nghe Bác nói chuyện. Lúc này những hàng ngồi gần đã thấy cổ Bác lấm tấm mồ hôi.
Bác giơ tay tạm biệt: “Bác còn bận đi việc khác”. Khi chiếc mốt cô vít chuyển bánh, chúng tôi ùa lên mặt đê vừa vẫy tay vừa hô vang: “Hồ Chủ tịch muôn năm!” cho đến khi chiếc xe khuất dần sau làn bụi.
Không ai bảo ai! Không ai ra lệnh! Không ai chỉ huy! Mọi người túa đi tự động sửa sai. Quả là khu lán vệ sinh dành cho chuyên gia đã có ai “bậy” vào đó. Dọc mép ruộng được tổng vệ sinh và cắm biển “cấm đổ rác”, làm nhà tắm cho phụ nữ. Hôm sau, xây bể phòng hỏa và sắm đủ xô gầu cho từng dãy lán. Thì ra Bác đã đi khắp nơi trong công trường rồi mới đến nói chuyện.
Nửa tháng sau khi khởi công, giữa mùa đông mưa rét, công trường lầy lội với hơn ba vạn dân công, bộ đội, sinh viên miệt mài hăng say lao động. Chúng tôi kỹ thuật hiện trường vừa đi làm ca 3 về đang tính làm một giấc tới trưa, bỗng có tiếng thì thào “Bác đến! Bác đến!”, không tin nhưng vẫn khoác áo bông chạy ra, một chiếc com măng ca lấm bùn đỗ trên mặt đê, sát cổng chính công trường.
Bác mặc áo kaki, cổ quấn khăn len, vẫn mũ cát rộng vành cùng mấy chú bảo vệ đi vào. “Bác! Bác Hồ!". Chúng tôi vừa reo lên vài tiếng thì mấy chú bảo vệ khoát tay bảo im lặng. Một giọng trầm ấm cất lên: “Bác bận làm việc! đi ca ba về hả! Ngủ đi mà lấy sức". Rồi bác đi thoăn thoắt về dãy lán của ông Hà Kế Tấn, chỉ huy trưởng phía đối diện. Chúng tôi lén vào căn lán giao ban sát vách chỉ huy trưởng, giọng ông Tấn cuống quýt:
- Dạ! Thưa Bác mưa rét, bùn lầy quá ạ! Xin Bác bữa khác hãy xuống ạ!
- Có dân công bộ đội làm việc không? Bác ôn tồn.
- Dạ, hơn ba vạn ạ!
- Dân công, bộ đội làm việc được! Bác chỉ tới thăm sao lại không được?
- Dạ, cơ mà phức tạp lắm ạ!
- Chú phức tạp thì có! Giọng Bác đã có vẻ không hài lòng.
Ông Tấn cầm máy điện thoại nội bộ gào lên báo cho đội trưởng bảo vệ biết là Bác Hồ đang trên đường ra thăm kênh ngoài. Khoác vội cái áo bộ đội lấm đất, ông lạch bạch chạy tắt cánh đồng đón đầu. Chúng tôi cũng chạy theo.
“Bác đến! Bác đến!”. Người nọ truyền người kia, thoáng chốc cả làn sóng người trên công trường chuyển động, cả biển người bất chấp mưa phùn, giá rét, bùn đất vây quanh Bác.
Lẽ ra cống Xuân Quan đã hoàn thành tầng dưới để kịp mở nước đúng ngày 6 tháng Giêng nhưng gặp sự cố kỹ thuật nên tiến độ chậm lại. Tôi làm ca 3 phụ trách khâu phối liệu bê tông. Nửa đêm sương mù giăng kín. Chợt nhìn xuống sàn bê tông tôi nhìn thấy khá đông người không bình thường trong đó có dáng thấp lùn của chỉ huy trưởng công trường Hà Kế Tấn. Tôi chạy xuống nhưng có người ngăn lại: "Dừng lại. Bác đang thăm công nhân đổ bê tông ca 3 đấy”.
Có lần tờ báo Bắc Hưng Hải, đặc san của công trường đăng tin dân công và bộ động gánh đất một lúc 4 sọt, có người gánh 6 sọt, theo tiêu chuẩn chỉ 2 sọt tổng cộng 35 kg. Bác cho triệu chỉ huy công trường Hà Kế Tấn: “Chú cầm quân đánh giặc lâu năm mà không biết dưỡng quân! Gắng quá sức dễ ốm, không bền”. Lập tức ông Tấn hạ lệnh cho cán bộ hiện trường chúng tôi là cấm gánh 6 sọt, riêng phụ nữ chỉ được gánh 2 sọt, ngày kiêng kị hàng tháng nếu không tìm được việc nhẹ thì chị em được nghỉ mà vẫn tính công. Còn nhiều chuyện khác không thể viết hết ở đây.
Bác còn đến thăm công trường một lần nữa khi sắp hoàn thành nhưng lần nào cũng như lần nấy, Bác đều thoắt đến, thoắt đi không báo trước, giản dị như người cha đến thăm con cháu lao động không có nghi thức đón tiếp, không hùng biện thuyết giảng mà chỉ ân cần chỉ vẽ, giải quyết những khó khăn cụ thể.
Công lao trời biển của Bác đối với thủy lợi trùm lên như bóng mát của cây Tùng, cây Bách cổ thụ. Đến 9/1969 vài ba ngày trước khi mất, Bác còn gọi ông Phạm Văn Đồng và ông Hà Kế Tấn đến bên giường bệnh nghe báo cáo và dặn dò không được để vỡ đê. Thống kê chưa đầy đủ, trong 24 năm ấy, Bác đã: - Ký 20 văn bản pháp quy về thủy lợi. - Chủ trì 31 phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn chuyên đề hoặc có bàn về thủy lợi. - Thăm và nói chuyện 24 lần tại các hội nghị thủy lợi, đê điều trung ương và địa phương. - Với bút danh TL, Trần Lực, CB, Bác đã viết 62 bài báo về thủy lợi đăng trên báo Nhân dân. - 30 lần xuống tận công trường, làng xã thăm hỏi, động viên nông dân làm thủy lợi. |
SỰ TIẾN BỘ VỀ KHOA HỌC KỸ THUẬT THUỶ LỢI Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN 1945
Công ty ĐTPT thủy lợi Sông Đáy
ĐANG TRUY CẬP: | 1 NGƯỜI. |
HÔM NAY: | 1 LƯỢT. |
TOÀN BỘ: | 1 LƯỢT. |
2015 © qlnsongday.vn ALL Rights Reserved. Bảo mật