SỰ TIẾN BỘ VỀ KHOA HỌC KỸ THUẬT THUỶ LỢI Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN 1945
Từ góc độ lịch sử - văn hoá, nghiên cứu sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật của bộ máy chính quyền phong kiến và thực dân Pháp trong công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB) những năm cuối thế kỷ XIX đến 1945; một giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc là việc rất cần thiết góp phần vào việc nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về lịch sử dân tộc; đồng thời tìm thấy cả những di sản văn hoá, bài học kinh nghiệm thiết thực phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi, một vấn đề luôn mang tính cấp bách, đang trở thành mối quan tâm của nước ta và cộng đồng thế giới.
1. Khái quát chung về công tác thuỷ lợi ở ĐBBB đến trước năm 1883.
ĐBBB có hình tam giác với đỉnh của nó là Việt Trì (Phú Thọ) và đáy kéo dài từ Quảng Yên đến Ninh Bình, là sản phẩm vô giá của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Từ xa xưa, phù sa sông Hồng, sông Thái Bình đổ ra biển Đông và bù đắp nên những bãi bồi ven biển, làm cho diện tích ĐBBB được mở rộng. Hạn chế của ĐBBB là đất đai thường là đất chua, mặn nặng, cùng với sự phức tạp của địa hình, sự chênh lệch khá lớn của lưu lượng nước trên các dòng sông và sự thất thường của khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng, đã khiến vấn đề thuỷ lợi nơi đây luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu.
Điều này được thể hiện cụ thể ngay từ thời kỳ dựng nước và chạy dọc theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, hầu hết các vương triều và nhân dân (phần đông là nông dân) đã rất quan tâm đến việc bảo vệ sản xuất và nâng cao đời sống. Trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên, đã ra đời vào thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng.
Trải qua thời gian, với những thăng trầm của lịch sử dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn không ngừng quan tâm đến công tác thuỷ lợi để ổn định sản xuất và nâng cao mức sống của người dân. Từ thế kỷ XI – XV, thời Lý - Trần - Lê, do chính sách khuyến nông và sự quan tâm của nhà nước phong kiến đối với công tác thuỷ lợi, nên công tác khẩn hoang được đẩy mạnh thêm và đạt được những thành tựu đáng kể so với các thời kỳ trước đó. Chẳng hạn vào năm 1077, nhà Lý tổ chức đắp đê sông Như Nguyệt (sông Cầu), dài 67.380 bộ (khoảng 30 km). Nhà Trần chú trọng đẩy mạnh thuỷ lợi, khai hoang mở rộng diện tích canh tác và địa bàn cư trú của nhân dân. Ở các Lộ, nhà Trần đặt các chánh, phó sứ đồn điền trông coi việc khẩn hoang. Năm 1248, vua Trần xuống chiếu cho các địa phương huy động lực lượng quân dân “đắp đê giữ nước sông gọi là đê Đỉnh Nhĩ, đắp suốt từ đầu nguồn cho tới cửa biển để giữ nước lụt tràn ngập”. Trong công cuộc xây dựng lại đất nước, sau khi đánh đuổi quân xâm lược Minh ra khỏi bờ cõi năm 1428, nhà Lê rất quan tâm đến các chính sách nông nghiệp. Để khai phá các vùng đất bồi ven biển, nhà Lê đã cho đắp nhiều con đê ngăn mặn có kè đá chắc. Ngày nay, nhiều đoạn đê như vậy, được gọi là “đê Hồng Đức” và một số con sông đào mang tên “sông nhà Lê”, hiện vẫn còn ở một số địa phương vùng Bắc Bộ, Thanh Hoá.
Đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX), được thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm hàng ngàn năm của các thời đại trước để lại, nên công việc thuỷ lợi lúc này đã có những thuận lợi nhất định. Cũng như nhiều triều đại trước, vua quan triều Nguyễn nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề thuỷ lợi. Đồng thời những nguyên nhân về chính trị, kinh tế, xã hội cũng buộc nhà Nguyễn phải chú trọng giải quyết vấn đề thuỷ lợi.
Nhằm thực hiện chính sách trọng nông, các triều vua Nguyễn đã phải quan tâm và có những biện pháp tích cực thúc đẩy công cuộc thuỷ lợi, khai hoang ở ĐBBB như tổ chức lấy ý kiến của quan lại, dân chúng về vấn đề đắp đê ở ven các sông vào các năm 1803, 1846, 1882, 1883. Triều đình cũng đặt các chức quan Đê chính Bắc Thành, doanh điền sứ, chuyên trách công việc thuỷ lợi, khai hoang; quy định điều lệ về việc sử dụng đê, sông một cách chi tiết, chặt chẽ, toàn diện hơn các triều đại trước. Nhà Nguyễn chia đê, cống thành hai loại là công và tư, để thuận tiện việc xây dựng, quản lý. Những công trình quan trọng được Nhà nước trợ cấp tiền, gạo, công cụ, nguyên vật liệu. Đến mùa mưa, bão, lũ, triều đình thường cử quan đại thần về kiểm tra, đôn đốc việc canh phòng các đê ven sông. Đồng thời cũng cử các quan doanh điền sứ có kinh nghiệm, cần mẫn như Nguyễn Công Trứ (thời Minh Mạng), Doãn Khuê (thời Tự Đức) chăm lo các công việc thuỷ lợi, khai hoang ở Thái Bình, Nam Định. Với sức lao động bền bỉ của nông dân, việc khẩn hoang, làm thuỷ lợi ở ĐBBB, cũng như cả nước đạt một số kết qủa.
2. Một số tiến bộ và hạn chế trong các biện pháp khoa học kỹ thuật thuỷ lợi ở ĐBBB trước 1883.
Qua các thời kỳ lịch sử dân tộc, trong những điều kiện khác nhau, nhìn chung công cuộc thuỷ lợi ở ĐBBB vẫn được tiến hành bền bỉ, liên tục, ngày càng có nhiều thành tựu to lớn hơn.
a. Về biện pháp kỹ thuật làm thuỷ lợi, nhân dân vùng ĐBBB lúc này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Họ biết kết hợp giữa việc đắp đê, xây dựng kè, cống, đập với việc khơi đào sông để thoát lũ chống vỡ đê, giải quyết việc tưới tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống; lợi dụng thuỷ triều, tiết kiệm công sức lao động cho nông dân trong việc tưới tiêu cho ruộng lúa để có thể biến một vụ thành hai vụ. Đã có nhiều ý kiến của người nước ngoài đánh giá cao các công trình thuỷ lợi ở ĐBBB được xây dựng trước khi người Pháp tới. Chẳng hạn, khi nhận xét về công trình thuỷ lợi của Thái Bình trước 1883, P.Pasquier cho rằng: “Những điều kiện địa lý tự nhiên đã làm trỗi dậy trong đầu óc người dân Thái Bình ý thức đấu tranh kiên trì và liên tục cần thiết để thúc đẩy công cuộc cải tạo thiên nhiên. Những công trình thuỷ lợi ở Thái Bình là những công trình mạnh dạn. Nhờ các công trình đó mà người dân Thái Bình có khả năng mở rộng không ngừng phạm vi hoạt động nông nghiệp của họ bằng cách buộc đất đai phải nổi lên và biển cả phải rút lui” [7, tr10].
Chưa bao giờ việc tranh luận về vấn đề thuỷ lợi lại thu hút được nhiều ý kiến như thời Tự Đức (1848 - 1883). Điều này dễ hiểu, vì trải qua gần 50 năm trực tiếp quản lý công việc trị thuỷ ở ĐBBB, những tri thức, kinh nghiệm đã được bổ sung thêm. Hơn nữa lúc này, một số tri thức người Việt có dịp tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Do đó, những kiến nghị về vấn đề thuỷ lợi cũng được mở mang hơn. Các bản điều trần đưa ra nhiều lý lẽ quan trọng hơn, đa dạng hơn. Họ không chỉ bàn đến biện pháp đắp đê hay bỏ đê, đào sông, mà có người còn bước đầu đề cập đến vấn đề trồng rừng, đập tràn và dùng tàu đồng để vét sông. Bùi Quỹ (Bùi Ngọc Quỹ), trong bản điều trần gửi lên triều đình năm 1852, nêu ý kiến: cùng với việc đắp đê phải khơi vét các mương, lạch, sông, ngòi để tiêu thoát nước úng. Đặc biệt là ông đã nghĩ đến việc lợi dụng những nước ứ tụ để xây dựng “thuỷ áp”, khi cần có thể phân lũ, giữ nước tưới ruộng vào mùa khô.
Nhà cải cách tiêu biểu của nước ta nửa cuối thế kỷ XIX không thể không nhắc đến là Nguyễn Trường Tộ, ông đã có nhận thức đúng đắn và đưa ra một số biện pháp mới về thuỷ lợi.
Về biện pháp khoa học kỹ thuật, ông chủ trương kết hợp việc đắp đê với đào nhiều sông, kênh, hồ để tháo, giữ nước chống úng lụt, chống hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển giao thông vận tải, nghề cá… Đặc biệt, ông nhấn mạnh biện pháp trồng cây, bảo vệ rừng để điều hoà khí hậu, phòng chống lũ lụt. Ông còn đề nghị triều đình cử người đi học phép trị thuỷ của nước ngoài, nhằm đào tạo những nhà trị thuỷ giỏi nhất cho đất nước [10].
Về mặt nhận thức, sự hiểu biết về thuỷ lợi được mở rộng nâng cao thêm, bên cạnh những biện pháp, kinh nghiệm có tính truyền thống, có những biện pháp mới hướng tới trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại được nêu ra, nhằm phục vụ nhiều yêu cầu thực tiễn đặt ra: phòng chống thiên tai, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, giao thông vận tải, thương mại.
b. Ngoài việc tổ chức trưng cầu ý kiến của nhân dân và quan lại là nên đắp đê hay bỏ đê (1852). Nhà Nguyễn thành lập lại Nha Đê chính ở Bắc Thành (1857). Ngay từ khi lên cầm quyền, Tự Đức cũng đã cho phép khen thưởng những người có công trong việc sông đê ở các tỉnh Bắc Kỳ. Chúng tôi muốn đề cập đến dự án thuỷ lợi và tình hình thực hiện những dự án ấy của Nguyễn Tư Giản, được ghi trong Đại Nam thực lục Chính biên, đệ tứ kỷ, các tập 28, 29.
Trong dự án thứ nhất: Năm 1857, ông đã dâng lên Tự Đức bản điều trần để bảo vệ ý kiến giữ đê của ông và 10 công việc đê sông cần làm để giữ nước sông. Dự án này mặc dù còn có thiếu sót nhất định, nhưng có những ưu điểm quan trọng. Ví như ngoài việc đắp đê sông ở nội đồng, ông đã chú ý đến việc đắp đê ở ven biển để ngăn nước lũ, sóng biển và nước mặn tràn vào, biết làm hồ chứa nước, chú ý đến việc đắp đê và tổ chức lực lượng chuyên trách bảo vệ đê điều; chú trọng việc dự trù kinh phí, lương thực, chăm lo đến đời sống và khuyến khích dân công làm đê. Điều mới mẻ ở đây và cũng là đóng góp cho sự tiến bộ của công việc thuỷ lợi ở nước ta lúc ấy là trong dự án của ông đã biết sử dụng, kết hợp nhiều biện pháp thuỷ lợi liên hoàn với nhau. Những ưu điểm nói trên làm cho dự án của ông có sức thuyết phục.
Trong dự án thứ hai của ông là cải tạo sông Thiên Đức để phân lũ sông Hồng. Tất nhiên, ông không phải là người đầu tiên đưa ra đề án dùng sông Thiên Đức để làm đường thoát lũ cho sông Hồng. Đã từng có dự án của Lê Đại Cương, Hoàng Quýnh (thời Gia Long), Mai Khắc Mẫn (thời Minh Mạng), Nguyễn Đình Tân (thời Thiệu Trị)… Cái mới là ông đã có sự nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể, hệ thống hơn về vai trò của sông Thiên Đức. Trong các dự án của ông đề xuất vào năm 1858, 1861, ông không chỉ đưa ra biện pháp nạo vét, khơi dòng sông mà ông còn có sáng kiến nắn thẳng dòng sông (ở khúc quanh), đào thêm nhánh sông mới, di dân ở ngoài đê làm cho dòng sông Thiên Đức lưu thông dễ dàng, thoát nước lũ nhanh hơn.
Các dự án của Nguyễn Tư Giản đã thể hiện bước tiến mới quan trọng về trình độ kiến thức thuỷ lợi của nước ta ở thế kỷ XIX so với những thế kỷ trước đó. Trong công tác thuỷ lợi, nhân dân ta đã biết kết hợp đắp đê ngăn lũ lụt với đào sông mới, nạo vét dòng sông cũ, cửa biển để cho nước lũ thoát nhanh, chống vỡ đê. Sông ngòi còn giúp cho việc tiêu úng khi mưa nhiều và để giữ nước cung cấp cho lúa, hoa màu khi nắng hạn. Những dự án của ông khi đưa ra thực hiện đã mang lại hiệu quả nhất định “các dòng sông ở Bắc Kỳ đã yên sóng”, nhiều lần Tự Đức còn ban thưởng, khuyến khích Nguyễn Tư Giản [6, tr61].
(Phu đắp đê thời xưa lĩnh tiền công)
Như thế, vào cuối thế kỷ XIX dưới thời trị vị của triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp chính thức đặt ách thống trị lên toàn Bắc Kỳ (1883 - 1945) nói riêng, những biện pháp về thuỷ lợi được đưa ra và thực hiện có số lượng nhiều, có chất lượng hơn so với thời kỳ trước đó. Một số biện pháp có tính khoa học, toàn diện hơn, tiêu biểu cho sự cố gắng tiến bộ về nhận thức, trình độ khoa học kỹ thuật làm thuỷ lợi của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Những biện pháp trên khẳng định rằng nhân dân ta đã đúc rút kinh nghiệm lâu đời và phù hợp với điều kiện của ĐBBB. (Kiến thức lợi dụng thuỷ triều để tưới tiêu, kiến thức tổ chức quản lý làng xã: bảo vệ ruộng đất chặt chẽ, khoa học, có pháp luật nhà nước quy định). Chi phí không quá tốn kém nhưng vẫn mang lại hiệu quả nhất định. Cho nên, khi nói đến các tỉnh ở ĐBBB “quà tặng của dòng sông Hồng và sông Thái Bình”, cần phải nhắc đến sức lao động sáng tạo, cần mẫn, gian khổ của người nông dân “một nắng hai sương”, “chân đạp bùn, đầu đội đất” để xây dựng nên những công trình thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng phì nhiêu.
Tất nhiên, dù đã có những cố gắng cùng với những thành công nhất định như vậy, nhưng trong thời kỳ mà chế độ phong kiến đã quá suy yếu, không đủ năng lực chăm lo sản xuất, không đủ sức tổ chức công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, công tác thuỷ lợi ở ĐBBB lúc này đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém.
Hầu hết các công trình thuỷ lợi đều được xây dựng và phát triển thiếu đi một quy hoạch thống nhất, đồng bộ (mang tính chất từng tỉnh, từng thời gian khác nhau). Các dự án, biện pháp nêu ra là do sáng kiến của từng viên quan, trên từng đoạn đê, từng con sông, vì lợi ích của một địa phương. Đó là yếu kém lớn nhất của các dự án, biện pháp làm thuỷ lợi nửa cuối thế kỷ XIX. Nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc, nhỏ hẹp, những tư tưởng cục bộ địa phương nặng nề và trình độ tính toán còn thấp là nguyên nhân của hạn chế này.
Nhà nước phong kiến cũng thiếu kiến thức mang tính hệ thống về thuỷ văn, khí hậu, thuỷ lợi hiện đại. Công cuộc thuỷ lợi hoá đòi hỏi phải có những nhà chuyên môn, người tổ chức quản lý giỏi, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm để thực hiện các dự án thuỷ lợi có kết quả. Nhưng vào thế kỷ XIX, trình độ khoa học tự nhiên có liên quan đến thuỷ lợi (như địa lý khí hậu, thuỷ văn, toán học, lý học, sinh thái học…) ở nước ta chưa phát triển cao. Những quan lại lúc bấy giờ không được đào tạo chuyên trách làm các công việc thuỷ lợi. Vì thế quan lại, ngay cả những viên quan đê chính có tinh thần trách nhiệm, có năng lực như Nguyễn Tư Giản cũng không thành công trong công việc.
Các biện pháp thuỷ lợi muốn thực hiện được phải có nguồn tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất dồi dào. Vào nửa cuối thế kỷ XIX, ở nước ta, nền tài chính của nhà nước phong kiến, sức người, sức của của nhân dân đã bị khủng hoảng, suy kiệt. Nạn thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra thường xuyên. Tình hình chính trị, xã hội rối ren. Cũng lúc đó, thực dân Pháp tiến hành xâm lược. Thực tế, các vua triều Nguyễn cũng đã chú ý đầu tư tiền gạo cho nhiều công trình thuỷ lợi, tìm biện pháp giải quyết thiếu hụt ngân sách (huy động sự đóng góp của các chủ ruộng đất, quyên tiền, thóc của người giàu, thuê dân đói, phiêu tán làm việc sông đê, lấy tiền công thay cho phát chẩn… ) nhưng các biện pháp đó chỉ có tác dụng nhất thời. Việc tổ chức quản lý yếu kém, bọn quan lại và những kẻ trông coi việc thuỷ lợi bớt xén, lãng phí tiền của chi phí cho các công trình. Nhiều công trình thuỷ lợi phải làm đi làm lại nhiều lần, hoặc kéo dài thời gian thi công. Đê xã Nhân Tập, huyện Văn Giang (Hưng Yên) đắp đi đắp lại mà vẫn vỡ hàng năm liền.
Nguyên vật liệu xây dựng các công trình chủ yếu bằng vôi, cát, đá, gạch, gỗ lim, tre, chưa biết sử dụng những nguyên vật liệu có chất kết dính, rắn chắc (xi măng, sắt, thép) để có thể đứng vững trước những sự tàn phá dữ dội do điều kiện khí hậu và thiên tai gây ra. Khả năng tưới, tiêu, chống hạn, úng của các công trình chỉ phục vụ trong từng vùng đất nhỏ hẹp. Đê, kè, cống, đập đều dễ bị sạt, vở. Những chính sách của nhà Nguyễn chưa tập hợp và phát huy được hết sức mạnh của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong việc làm thuỷ lợi.
Yếu kém trên đây cần phải được khắc phục bằng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để thuỷ lợi ĐBBB có thể đáp ứng được yêu cầu mới (yêu cầu này được đặt ra vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX) về phát triển kinh tế, xã hội của ĐBBB và đất nước.
3. Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật giải quyết vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBB thời Pháp thuộc (1883 - 1945).
3.1. Yêu cầu đặt ra cho công tác thuỷ lợi ở ĐBBB.
Năm 1883, thực dân Pháp đánh chiếm ĐBBB, nhân dân vùng châu thổ liên tiếp nổi lên kháng chiến chống xâm lược, nhất là từ năm 1885, hưởng ứng chiếu của vua Hàm Nghi phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược toàn đồng bằng càng trở nên sôi nổi, quyết liệt. Thực dân Pháp đã tiến hành một cuộc chiến tranh bình định bằng quân sự rất tàn bạo để tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nhân dân kéo dài hơn 10 năm kể từ 1883 – 1897, gây ra nhiều đau thương, tổn thất sức người, sức của nhân dân, đồng thời còn cản trở quá trình phát triển của lịch sử ĐBBB, trong đó cản trở, phá hoại quá trình xây dựng, phát triển thuỷ lợi vốn có từ trước ở ĐBBB.
Ngoài địch họa, cuối thế kỷ XIX đến đầu XX vấn đề thuỷ lợi được đặt ra giải quyết trong điều kiện khí hậu, thời tiết không điều hoà và thường xuyên có thiên tai xảy ra. Tiêu biểu những đợt sóng thần (1883), trận lụt lớn ở Quý Tỵ (1893), bão lớn (1897)… đã tàn phá nặng nề vùng đồng bằng châu thổ. Theo thống kê của P.Gourou, trong 20 năm từ 1900 đến 1930 vùng này đã có 30 trận bão đem lại nhiều tai hại cho con người. Nhà cửa đổ nát, các công trình công cộng bị tàn phá, ruộng đồng ngập nước, mùa màng mất trắng, đói rét, dịch bệnh. Bão to cũng đồng thời là mưa lớn, vỡ đê lũ lụt xảy ra. Sau lũ lụt là nạn hạn hán hoành hành. Theo E. Chassigneux, từ sau khi chế độ của Pháp được thiết lập, ở Bắc Kỳ đến 1912 có hơn 5 lần đại hạn xảy ra, nặng nề nhất là vào các năm 1895, 1896, hạn hán diễn ra cả trong mùa hè nóng nực. Mùa màng thất bát, người đói khát không còn gì để ăn, phải kéo nhau đi ăn xin ngoài đường, ngoài chợ. [3].
Những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội trên đây khiến cho vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBB vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX luôn luôn là vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết. So với thời kỳ trước 1883, thì lúc này thuỷ lợi ở ĐBBB phải nhanh chóng được khôi phục, sửa chữa các công trình đã bị hư hại trong thời gian có chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân. Tiếp đến, phải đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển các công trình thuỷ lợi của cả vùng, theo những yêu cầu mới:
Thứ nhất, phải xây dựng được một quy hoạch thuỷ lợi tổng thể, thống nhất trong toàn vùng ĐBBB. Các công trình thuỷ lợi ở đây từ trước 1883 đã được xây dựng thành một hệ thống có quy mô rộng lớn với số lượng khá nhiều, đó là “những công trình mạnh dạn”, giúp cho việc mở rộng đất đai, phát triển sản xuất nông nghiệp [7, tr10], hạn chế thiệt hại do thiên tai (úng, lụt, hạn) gây ra. Tuy vậy, các công trình thuỷ lợi này được xây dựng thiếu một quy hoạch thống nhất, đồng bộ, nên hiệu qủa phục vụ kém và rất hạn chế. Năm 1859, trong lời dụ của mình, Tự Đức đã nói về nhược điểm này, nhân dịp bàn về việc đắp đê, đào sông Thiên Đức (sông Đuống) ở Bắc Ninh. “Các quan mới chỉ đem việc lợi hại của vài huyện mà nói. Còn việc lợi hại của cả con sông thì chưa được tường tận”[7, tr56]. Yêu cầu trước nhất của công tác thuỷ lợi ở ĐBBB vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là phải khắc phục được thiếu sót của thuỷ lợi trước 1883, phải xây dựng được quy hoạch thuỷ lợi đồng bộ, thống nhất trong toàn vùng.
Thứ hai, phải cải tạo, hoàn thiện các công trình đã có, đồng thời xây dựng các công trình mới có quy mô lớn để thực hiện tốt nhiệm vụ chống thiên tai, tưới tiêu, phục vụ nông nghiệp. Rõ ràng, các công trình thuỷ lợi ở ĐBBB có nhiều hạn chế, nhưng không thể huỷ bỏ được. Bởi vì, “chỉ một chút sơ suất, ví dụ cắt bỏ một đoạn sông, với một mục đích tốt, cũng có thể dẫn tới việc làm mất đi một diện tích rất lớn” [7, tr51]. Từ đó một yêu cầu mới đặt ra là hoàn thiện, cải tiến các công trình sẵn có. Tuy biết kế thừa kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, chính quyền thực dân cũng thấy cần thiết phải tìm hiểu một số vấn đề: Chẳng hạn, số lượng các công trình thuỷ lợi đã làm được trước 1883 khá nhiều, nhưng vì sao “các công trình này lại không bảo đảm đầy đủ được nhiệm vụ chống thiên tai, tưới, tiêu, phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân?” [1, tr55]. Đáp số mà họ có được là tuy số lượng nhiều, nhưng lại thiếu những công trình đầu mối có quy mô lớn, có khả năng điều tiết nước theo yêu cầu của cây trồng. Việc xây dựng tản mạn, manh mún chỉ có thể giải quyết yêu cầu từng vùng nhỏ, đôi khi vì không đồng bộ mà có tác dụng ngược lại.
Thứ ba, phải vận dụng kỹ thuật tiên tiến và có sự giúp đỡ của máy móc trong việc làm thuỷ lợi. Điều này trước đây ở Việt Nam thời phong kiến không thể thực hiện được vì không có trình độ kỹ thuật cần thiết mà chủ yếu hoàn thành bằng lao động chân tay và nhiệt tình của nông dân. Đã từ lâu đời, người nông dân ở ĐBBB đã biết lợi dụng thuỷ triều, dòng nước tự chảy, hoặc dùng sức người với những công cụ thô sơ (gầu, guồng) để tưới tiêu cho đồng ruộng. Tưới tiêu bằng phương pháp này là rất cần thiết, thuận lợi và rất kinh tế, nhưng đặc điểm địa hình, khí hậu, thuỷ văn của ĐBBB đã không cho phép chỉ tưới tiêu bằng trọng lực đơn giản. Phương pháp này “đã không giải quyết đầy đủ được một trong hai vấn đề tưới hoặc tiêu”, đem lại “kết quả kém” và “hạn chế” [3, tr95-96].
Thứ tư, cần phải có nguồn tài chính lớn để giải quyết những vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBB (sữa chữa, khôi phục các công trình đã có, xây dựng các công trình mới, trang bị cơ sở vật chất, máy móc, kỹ thuật cho công tác thuỷ lợi, v.v… ) Tất nhiên, đầu tư, xây dựng cho thuỷ lợi phải luôn đi liền với công tác quản lý và bảo vệ nó.
Rõ ràng, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBB được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết theo yêu cầu mới cao hơn so với thời kỳ trước. Vậy chính quyền thực dân Pháp đã giải quyết những yêu cầu đó như thế nào trên phương diện tiến bộ của khoa học kỹ thuật thuỷ lợi?
3.2. Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật thuỷ lợi ở ĐBBB thời Pháp thuộc.
Năm 1883 và 1884, triều Nguyễn ký liền hai Hiệp ước đầu hàng hoàn toàn và thừa nhận quyền thống trị của thực dân Pháp. Từ đó, với chức năng của nhà nước thống trị, thực dân Pháp trực tiếp nắm quyền điều hành công việc thuỷ lợi trong cả nước. Năm 1887, triều Nguyễn còn cam kết cụ thể hơn việc trao mọi quyền hành, kể cả quyền giải quyết vấn đề thuỷ lợi ở Bắc Kỳ, cho thực dân Pháp. Năm ấy, vua Đồng Khánh đã chuẩn định cho các tỉnh Bắc Kỳ: “Từ nay phàm có gặp ruộng lúa tổn hại và đê lỡ ngập, sâu, cát bồi đổi hạng, cùng hết thảy chi tiêu các việc công ở tỉnh, đều tư trước lên Nha Kinh lược xét thực, rồi thương lượng với viên Toàn quyền duyệt y, có đủ giấy tờ trả lời, mới được kê khai tư vào bộ xem xét, không được tư thẳng” [8, tr6].
Tất nhiên, kế hoạch thuỷ lợi của thực dân Pháp ở ĐBBB nằm trong tổng thể chính sách, chủ trương về kinh tế nói chung, về nông nghiệp nói riêng của chúng ở Việt Nam qua các thời kỳ đô hộ, nhằm phục vụ cho chính sách bóc lột và bình ổn chính trị. Dù muốn hay không, chính quyền thực dân vẫn phải một mặt kế thừa các biện pháp khoa học kỹ thuật thuỷ lợi ở ĐBBB trước đó, đồng thời có bổ sung những tiến bộ của khoa học kỹ thuật thuỷ lợi mới.
a. Nếu như, trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, thực dân Pháp chú trọng việc lập các đồn điền ở những vùng được gọi là “đất vô chủ”. Phương thức kinh doanh ở đồn điền chủ yếu là phát canh thu tô, nên chẳng cần đầu tư máy móc, kỹ thuật vào nông nghiệp, cũng chẳng lo xây đắp các công trình thuỷ lợi tốn kém. Thì trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, vì cần lượng nông sản, hàng hoá lớn cung cấp cho nước Pháp và để xuất khẩu, cạnh tranh ở thị trường quốc tế, thực dân Pháp phải đầu tư kinh doanh nông nghiệp không chỉ ở đồn điền mà trên đồng ruộng của nông dân còn sản xuất nhỏ, độc canh, lạc hậu, chúng phải chăm lo nhiều hơn đến khâu thuỷ lợi.
Chính quyền thực dân đã cho tiến hành thành lập những hội đồng nghiên cứu, điều hành công việc thuỷ lợi ở Bắc Kỳ như “Thượng hội đồng đê điều” (Commission superieure des digues, 1896), “Uỷ ban thuỷ nông” (Comité de L,hydraulique agricole, 1904 – 1905)… Một số dự án, kế hoạch về thuỷ lợi do các kỹ sư công chính, thuỷ nông nghiên cứu đã được trình bày. Hàng năm, các công trình thuỷ lợi được xây dựng trên một số địa điểm ở đồng bằng là theo ý tưởng của công sứ các tỉnh hoặc theo kế hoạch do một số kỹ sư công chính, thuỷ lợi người Pháp lập ra và điều hành. [3, tr97 – 100].
Sau Sắc lệnh của chính phủ Pháp ngày 18/1/1905 và Sắc lệnh ngày 9/2/1916 về tổ chức Công chính Đông Dương, ngày 16/5/1916, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra Nghị định tổ chức cơ quan công chính một cách cụ thể hơn trước. Hạt công chính Bắc Kỳ mới được thành lập chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn trong việc tổ chức xây dựng và quản lý các công trình công cộng, trong đó có các công trình thuỷ lợi chung của toàn vùng ĐBBB.
Từ năm 1900 đến 1930, ở ĐBBB có 4 dự án thuỷ nông được thực hiện. Đó là các dự án thuỷ nông Kép (1906 – 1914), Vĩnh Yên (1914 – 1922), sông Cầu (1922 – 1929) và Sơn Tây (1928). Các công trình kể trên đều thuộc địa phận các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên và Sơn Tây. Ở các nơi đó, tập trung nhiều đồn điền của bọn thực dân có nhiều thế lực, có đường giao thông thuỷ đi tới cảng Hải Phòng hoặc là khu quân sự của thực dân nên mới được chú ý xây dựng như vậy.
Việc tổ chức, quản lý như trên cần phải có điều kiện về tài chính. Vì vậy, chính quyền thực dân trong những năm 1883 – 1945 đã xác định một ngân sách chi cho thuỷ lợi. Lúc đầu, ngân sách này vừa nhỏ lại quá chặt chẽ, không bảo đảm cho việc hoàn thành một số công trình cần thiết. Về cơ bản, Nhà nước hầu như không đầu tư nhiều vào thuỷ lợi. Số tiền chi tiêu cho thuỷ lợi nông nghiệp, giao thông đường sông, nạo vét trong giai đoạn (1899 – 1923) chỉ chiếm 20,5% tổng ngân sách chi cho trang bị kinh tế xứ Đông Dương. Ngân sách để chi cho việc xây dựng, sửa chữa, bảo quản các công trình thuỷ lợi nhỏ ở làng xã do các chủ ruộng đóng góp hoặc quyên góp tiền của nhân dân mà có. Một số làng xã còn cho đấu thầu, cho thuê ao hồ, đầm, ngòi, ruộng đất công để chi cho thuỷ lợi, giao thông. Chính quyền thực dân vẫn thi hành chế độ lao dịch, bắt phu để huy động lực lượng xây dựng các công trình thuỷ lợi và các công trình công cộng khác. Như thế, có khá nhiều nguồn để chính quyền thực dân giải quyết vấn đề tài chính trong thuỷ lợi ở ĐBBB: tiền của làng xã và nông dân đóng góp, ngân sách các tỉnh, tiền do nhà nước thực dân hoặc ngân hàng cho vay. Trong các nguồn tài chính trên, tiền của nông dân đóng góp là chủ yếu và chiếm phần lớn nhất.
b. Năm 1930 trở đi chính quyền thực dân có kế hoạch tương đối quy mô, tổng thể. Người Pháp đã phối hợp với quan lại Việt Nam để thực hiện được các nhiệm vụ thuỷ lợi. Bộ máy tổ chức quản lý được phân thành các cấp: Toàn xứ Bắc Kỳ ngoài Hạt Công chính Bắc Kỳ chính quyền thực dân đã tổ chức các cơ quan nghiên cứu, theo dõi các vấn đề thuỷ lợi: Thượng hội đồng đê điều (1896), Uỷ ban thuỷ nông (1904 – 1905), Hội đồng tư vấn thuỷ nông và chống lũ lụt, bảo vệ Bắc Kỳ (1915). Ở các tỉnh thành lập Ty Công chính (Subdivision des traveaux publics) gọi là Ty công chính Nam Định, Ty công chính Thái Bình… gồm có một kỹ sư trưởng, một vài nhân viên, chuyên môn người Pháp. Ty công chính chịu sự chỉ đạo của Hạt công chính Bắc Kỳ và Công sứ tỉnh. Ở các làng xã, bộ máy tổ chức, quản lý thuỷ lợi dưới triều Nguyễn vẫn được duy trì. Hương hội (Hội đồng tộc biên, hội đồng lương mục) và lý dịch (Lý trưởng, phó lý) chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành việc làm thuỷ lợi ở địa phương. Dưới quyền chỉ đạo của hương hội, có một bộ phận chuyên trách, do xã dân cử ra, gồm có Phó Lý (người trực tiếp điều hành công việc của bộ phận chuyên trách), trương tuần, tuần phiên thủ cống, thủ lộ.
Ngày 28/12/1934, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cải tổ lại cơ quan công chính. Đứng đầu ngành công chính Đông Dương mới là cơ quan thanh tra công chính. Bắc Kỳ có Tổng Nha công chính Bắc Kỳ, có nhiệm vụ khảo sát, lập kế hoạch xây dựng, sửa chữa, phát triển các công trình chính, trong đó có thuỷ lợi. Tổng nha công chính Bắc Kỳ có 5 sở, trong đó có 1 sở trị thuỷ phụ trách nghiên cứu làm mới, bão dưỡng những công trình liên quan đến chống lụt, tưới tiêu, chống mặn, cải tạo đất và giao thông trên sông. Một số nghiên cứu thi công những công trình thuỷ lợi. Dưới sở có Khu và Ty thuỷ nông. Ở các tỉnh có Ty Công chính và các khu vực quản lý thuỷ nông.
Theo Hương ước của làng xã có các tổ chức, quản lý và điều hành các công việc thuỷ lợi ở làng xã ĐBBB giống như thời kỳ trước 1930. Hương hội (Hội đồng tộc biểu, Hội đồng kỳ mục) và lý dịch (trực tiếp là Lý trưởng, Phó lý) chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc xây dựng, bảo vệ và sử dụng các công trình thuỷ lợi ở làng xã.
c. Trong khoa học kỹ thuật thuỷ lợi, nếu so với thời kỳ trước 1883, thuỷ lợi ĐBBB vẫn được thực hiện theo các biện pháp truyền thống, kinh nghiệm đúc kết lâu dài của nhân dân ĐBBB: Đắp đê, đập, xây dựng các công trình kè, cống vững chắc với việc đào sông, khơi ngòi, thoát lũ chống vỡ đê, chống úng, hạn, tưới tiêu cho đồng ruộng, sử dụng hệ thống sông ngòi, cống đập ngăn nước mặn, tháo nước và lợi dụng thuỷ triều để đưa nước ngọt vào đồng ruộng ven biển. Tuy nhiên, có mặt khác với thời kỳ trước, bước đầu chính quyền quy hoạch tổng thể một vùng, một vài vùng; có thăm dò, điều tra, tính toán khi xây dựng các công trình. Xây dựng một số hồ, đập, đập tràn để thoát lũ sông Hồng. Một số ít cống, đập được xây dựng bằng xi măng, đá; bước đầu dùng máy móc phục vụ cho việc xây dựng các công trình thuỷ lợi: máy bơm để nạo vét sông, ngòi; máy lu để đầm, nén đê…
Từ năm 1931 trở đi, những biện pháp kỹ thuật cơ bản đã từng mang lại hiệu quả nhất định trước đây vẫn được tiếp tục vận dụng trong việc làm thuỷ lợi ở ĐBBB. Như việc kết hợp chặt chẽ giữa việc củng cố đê điều với khơi đào các dòng sông, ngòi, cửa biển, kênh mương và xây dựng các công trình kè, cống, đập; kết hợp giữa việc phòng chống lũ lụt, sóng triều, nước mặn với việc tưới, tiêu phòng chống hạn, úng; sử dụng thuỷ triều cùng với hệ thống sông ngòi, cống đập ngăn nước, tháo nước để dẫn nước ngọt vào đồng ruộng vùng ven biển.
Đáng chú ý hơn là trong khoa học kỹ thuật làm thuỷ lợi ở ĐBBB từ sau 1931 đã có những nét mới tiến bộ khác trước: Những kiến thức khoa học, kỹ thuật tiên tiến và những biện pháp làm thuỷ lợi hiện đại lúc bấy giờ đã được vận dụng trong việc xây dựng chương trình quy hoạch thuỷ lợi của tỉnh. Nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng theo quy trình chặt chẽ, trình tự theo các bước: thăm dò, khảo sát, lập dự án thiết kế, cơ quan chính quyền chuyên môn xét duyệt, thi công và qua nghiệm thu mới được sử dụng. Những công trình cống đập, đê lường và sông ngòi ở trong tỉnh khi tu sửa, xây dựng đều phải theo sự chỉ đạo, kiểm tra về kỹ thuật của Sở thuỷ nông Bắc Kỳ.
Nhiều cống, nhất là những cống âu thuyền lớn, quan trọng được xây dựng theo kỹ thuật tiên tiến lúc bấy giờ và bằng những nguyên liệu bền vững như xi măng, sắt, thép. Nhiều cống có cánh cửa bằng sắt và đóng mở bằng tời (cống Dương Liễu năm 1933, cống Nhân Lang 1934). Một số công trình đã dùng máy bơm dầu hút nước thay cho sức người tát khi thi công. Một số con sông, đoạn sông, cửa sông lớn, quan trọng đã được dùng tàu cuốc, tàu hút bùn cát để khơi đào, nạo vét. Những máy vét hút nhỏ kiểu Pinguely và Campistrou được dùng để nạo vét các sông quan trọng trong nội đồng. Máy vét kiểu “Godest drague a benne” để nạo vét ở các sông lớn, như các sông Luộc, sông Hoá, sông Trà Lý và sông Hồng. Khi đắp các con đê lớn đã dùng một số máy lu để đầm nén đất đê cho chắc.
d. Không thể phủ nhận việc chính quyền thực dân Pháp đã tập trung nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật và vận dụng những kinh nghiệm làm thuỷ lợi của nhân dân để nhằm giải quyết tích cực hơn nửa những khó khăn do điều kiện thuỷ chế và địa hình phức tạp gây ra. Ví như việc nghiên cứu và thực hiện những biện pháp kỹ thuật sửa đắp, củng cố đê, làm cho những con đê có thể đứng vững được trước sức ép, lưu lượng, tốc độ rất cao của dòng nước sông và trước sức tàn phá ghê gớm của gió bão, sóng biển, trong điều kiện cấu tạo địa chất của nền đê phần lớn chỉ là đất cát sa bồi hoặc bùn nhão. Hay đối với sông ngòi, không chỉ đào nối liền các dòng sông như trước 1930, mà khơi đào, nạo vét làm cho sâu, rộng nhiều dòng sông, làm tăng khả năng chứa nước hoặc tăng khả năng thoát nước của hệ thống sông ngòi trong nội đồng; đảm bảo tưới, tiêu thuận lợi, khắc phục tình trạng quá thừa nước trong mưa lũ và quá thừa nước trong mùa khô hanh. Cải tạo, xây dựng lại hệ thống cống, đập; nghiên cứu và sắp đặt cống, đắp lại những vị trí thích hợp ở phần thượng, hạ lưu những con sông làm cho việc lấy nước và tưới, tiêu úng cho ruộng lúa có hiệu quả cao hơn trước. Mở rộng diện tích cống và tiết diện của cống, đảm bảo lưu lượng nước qua cửa cống đáp ứng được yêu cầu cần nước tưới và chống úng, lụt cho làng mạc, đồng ruộng.
Chính quyền thực dân coi trọng các biện pháp kỹ thuật để nâng cao chất lượng xây đắp. Vì thế, trong kỹ thuật làm thuỷ lợi ở ĐBBB đã khắc phục được một số mặt yếu kém về biện pháp kỹ thuật của thời kỳ trước. Bước đầu đã có đầu tư vật chất, kỹ thuật cho thuỷ lợi; sử dụng những nguyên vật liệu tốt có độ bền vững hơn và vận dụng biện pháp kỹ thuật tiên tiến đương thời để xây dựng một số công trình thuỷ lợi lớn. Bước đầu sử dụng máy móc thay sức người để khơi đào, nạo vét sông ngòi, có biện pháp tích cực để giải quyết những khó khăn do điều kiện thuỷ chế, địa hình phức tạp gây ra.
Nhờ những thành tựu khoa học kỹ thuật đã làm cho năng suất lúa không ngừng được tăng lên. Thái Bình luôn là địa phương điển hình cho sự tăng trưởng đó ở ĐBBB. Vào năm 1939, sản lượng lúa tăng gần 28000 tấn và năng suất bình quân 1ha tăng 440 kg so với năm 1933 (năm có năng suất cao nhất trong giai đoạn 1931 – 1934). Năng suất lúa Thái Bình vào năm 1939 đạt 3320kg/ha - kỷ lục về năng suất lúa ở đây từ năm 1945 trở về trước.
e. Tuy nhiên, chúng ta vẫn dễ nhận ra những yếu kém về biện pháp kỹ thuật thuỷ lợi ở ĐBBB từ cuối thế kỷ XIX đến 1945. Ở đây, những biện pháp kỹ thuật và khả năng phục vụ của các công trình theo thiết kế vẫn chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng biện pháp tưới tiêu bằng trọng lực đơn giản. Trong việc làm thuỷ lợi và giải quyết vấn đề tưới, tiêu vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động của người nông dân cùng với những công cụ thô sơ như mai, cuốc, quang gánh và gầu, guồng nước như trước. Đặc biệt vấn đề về vốn, khoa học kỹ thuật hiện đại cho thuỷ lợi, một yêu cầu cấp thiết đã được đặt ra cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhưng thời kỳ này vấn đề vẫn chưa được giải quyết tích cực nhất. Mặc dù luôn nhận thức được thuỷ lợi là vấn đề tuyệt đối cần thiết đối với ĐBBB, nhưng trong thời gian gần 40 năm, kể từ khi đặt được ách thống trị đến 1945, chính quyền thực dân Pháp chỉ đưa ra thực hiện được một số rất ít kế hoạch giải quyết vấn đề thuỷ lợi tại đây. Các kế hoạch đó đều thể hiện tính chất “do dự, chập chững” không đầy đủ, triệt để của chính quyền thuộc địa.
Dù có những cố gắng, nhưng rõ ràng bộ máy chính quyền thực dân vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của công tác thuỷ lợi ở ĐBBB đặt ra, hiện tượng vỡ đê đã gây ra hậu quả nghiêm trọng với nông nghiệp, đời sống nhân dân. Kể từ năm 1931, hệ thống sông Hồng được chú trọng đắp đê, cải tạo các chỗ vỡ hàng năm. Năm 1931, có một chương trình đắp đê sông Cầu, sông Thương và sông Kinh Thầy và sông Thái Bình của hạt công chính Bắc Kỳ, nhưng không được duyệt y. Chính vì vậy, cho đến trước tháng 8 năm 1945, hệ thống đê sông Thái Bình, nhìn chung vẫn thấp và yếu.
Đập Đáy, một công trình lớn, quan trọng để phân lũ sông Hồng sang sông Đáy được xây dựng trong thời kỳ này. Đập được xây dựng cách cầu Phùng (Sơn Tây) 500 mét. Đập có 7 cửa, mỗi cửa rộng 33,75mét, có 6 trụ ngăn cách, chiều rộng mỗi trụ 6 mét. Lúc đóng kín hoàn toàn đỉnh cửa ở mức 12,50mét. Sau khi vận hành được một thời gian, đập thường xuyên xảy ra các sự cố. Đến vụ lũ năm 1945, đập Đáy bị vỡ và phải đắp đất lấp tất cả các cửa đập.
Nhìn chung, từ năm 1931 đến 1937, do có những biện pháp kỹ thuật đắp đê mới, và có một số tài chính chi phí nên chất lượng đê sông Hồng và một số đê quan trọng ở ĐBBB đã không bị vỡ lớn. Nhưng từ 1938 – 1944, đê điều ĐBBB lại không được sửa đắp, củng cố thường xuyên nên trận lũ năm 1945 hầu hết các đê ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ đều bị vỡ. Ruộng đất ngập trắng 260.000 ha. Chính phủ cách mạng mới thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã kịp thời tổ chức chỉ đạo đắp lại những chỗ đê vỡ chi phí hết hơn 2 triệu đồng và hàng trăm tấn gạo.
Sự du nhập kỹ thuật hiện đại vẫn còn nhiều hạn chế, nhỏ giọt, Pháp không chủ trương đào tạo các cán bộ cao cấp người Việt, mà chỉ là những kỹ sư, công nhân giúp việc người Việt. Thời kỳ sau 1931, nhất là sau khi Nhật xâm lược Đông Dương, đảo chính Pháp trong các cơ quan công chính có biên chế một số ít nhân viên và kỹ sư người Việt Nam. Nhưng qua tổ chức nhân sự cơ quan công chính trên đây chúng ta thấy thực dân Pháp luôn nắm độc quyền về tổ chức quản lý và khoa học kỹ thuật công chính, thuỷ lợi, hạn chế việc đào tạo, xây dựng kỹ sư, nhân viên kỹ thuật người Việt. Thực dân Pháp không có chủ trương đào tạo người Việt thành người nhân viên kỹ thuật cao cấp, kỹ sư công chính, thuỷ lợi. Vì vậy, những người Việt phục vụ trong cơ quan công chính rất ít và chỉ được đào tạo làm các công việc thư ký, thông ngôn, giám thị thi công.v.v. Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập một ngạch kỹ thuật viên báo xứ cho ngành công chính. Mỗi khóa chỉ đào tạo vài ba chục người. Sau khi tốt nghiệp phần lớn phục vụ các ngành kiến trúc, hoả xa, giao thông, mỏ… Mãi đến 8/1944, thực dân Pháp mới cho lập trường cao đẳng công chính để đào tạo kỹ thuật viên và kỹ sư. Nhưng trường hoạt động không được bao lâu phải chấm dứt.
Có nhiều nguyên nhân làm cho thuỷ lợi ở ĐBBB thời kỳ 1883 – 1945 yếu kém, như: điều kiện địa lý, khí hậu, thuỷ văn ở Bắc Bộ có quá nhiều khó khăn, phức tạp, do hậu quả sau nhiều thế kỷ đào sông, đắp đê, xây dựng cống đập làm thay đổi hệ địa sinh thái vùng châu thổ khiến vấn đề thuỷ lợi ở đây đặt ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp hơn trước. Thời kỳ này lại có nhiều biến cố chính trị, kinh tế xảy ra. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chính sách thống trị, khai thác, bóc lột của nhà nước thực dân không đáp ứng được yêu cầu của thuỷ lợi, yêu cầu của sản xuất, đời sống và quyền lợi thiết thân của nông dân, nên không động viên, phát huy được sức mạnh của nông dân và làm cho thuỷ lợi phát triển. Nhất là yêu cầu cấp bách của ĐBBB thời kỳ này đòi hỏi phải đầu tư nhiều vốn, khoa học kỹ thuật và trang bị các công cụ, máy móc hiện đại cho thuỷ lợi. Nhưng số vốn và khoa học kỹ thuật do thực dân đầu tư cho thuỷ lợi đã rất ít lại đầu tư theo cách nhỏ giọt, chậm muộn và không kịp thời. Với số vốn kỹ thuật đầu tư như vậy không đủ sức làm thay đổi về căn bản vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBB và làm cho nó có những bước phát triển đột biến được, ngược lại, công việc thuỷ lợi vẫn thất bại và kém hiệu quả.
4. Kết luận
Mặc dù thực dân Pháp có âm mưu thâm độc (vốn xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa thực dân - kẻ đi xâm lược) nhưng với lòng yêu nước thì không ít quan lại, cán bộ, kỹ sư, nhân dân ta bắt đầu tiếp thu và vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của Pháp và thế giới, những thành tựu văn minh vật chất đã được khai thác tích cực trong lĩnh vực thuỷ lợi nói riêng. Các kỹ sư, nhân viên kỹ thuật, công nhân người Âu hay người Việt thuộc ngành công chính, thuỷ lợi tuy phải làm việc phục vụ cho mục đích, quyền lợi của thực dân, nhưng họ “đã từng hành nghề một cách lương thiện, đã giành cho thuỷ lợi ở ĐBBB và một số nơi khác ở nước ta” sự gắn bó vì ham thích và cả tình yêu, trí thông minh, khả năng mọi sức lực của hoạt động nghề nghiệp của họ”. [2, tr206].
Khách quan chúng ta phải thấy rằng cùng với thời gian, việc xây dựng, phát triển thuỷ lợi của chính quyền thực dân vẫn dần đi vào kế hoạch thống nhất, với những dự án, thiết kế một số công trình lớn, quan trọng, được lập ra qua khảo sát tham dò thực tế và tính toán cụ thể. Trong tổ chức quản lý và xây dựng thuỷ lợi bước đầu đã vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật, phương pháp làm thuỷ lợi hiện đại châu Âu. Nhờ chất lượng và hiệu quả của thuỷ lợi, chủ yếu đối với sản xuất nông nghiệp trồng lúa được nâng dần lên rõ rệt. Thuỷ lợi đã có vai trò tích cực trong việc phòng chống, giảm nhẹ những thiệt hại do thiên tai, nên mùa màng được ổn định. Thuỷ lợi đã góp phần trực tiếp làm tăng vụ, tăng diện tích canh tác, tăng sản lượng và năng suất lúa.
Điều đáng khâm phục, và cũng mang đậm bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc ta chính là trong cuộc đấu tranh phòng chống thiên tai, tận dụng nguồn lợi thiên nhiên về nước diễn ra vô cùng gay go, phức tạp, tưởng chừng như bế tắc, nhưng chính lúc đó lại nảy sinh nhiều ý tưởng làm thuỷ lợi tốt hơn trước. Những dự án, biện pháp về đê, sông cuối thế kỷ XIX đã được nhiều nhà chuyên môn về thuỷ lợi người nước ngoài, trong khi thiết kế xây dựng các dự án thuỷ lợi ở nước ta đầu thế kỷ XX quan tâm nghiên cứu và đánh giá cao. Nhà sử học Nhật Bản đã cho rằng “dân chúng và chính quyền” phong kiến đã “có nhiều thiện chí và cố gắng”, và “Việt Nam thời đó đâu phải cô lập về mặt truyền thống và mặt tri thức”. [9, tr47 – 51]. Từ góc độ lịch sử văn hoá chúng tôi thấy rằng, những bước phát triển trong công tác thuỷ lợi ở ĐBBB nói riêng cũng như trên cả nước trong suốt thời kỳ thuộc Pháp là sự tiến bộ hợp quy luật. Nhân dân nơi đây luôn thể hiện sức mạnh của ý chí tự chủ, độc lập trong hoàn cảnh đầy khó khăn, không ngừng sáng tạo và đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại phương Tây vào trong công tác thuỷ lợi nói riêng. Đặt trong hoàn cảnh của đất nước trước 1945, những thành tựu và kết quả thuỷ lợi ở ĐBBB trên đây đáng được đánh giá cao; đồng thời nó đã đánh dấu một bước tiến mới quan trọng trong lịch sử phát triển thuỷ lợi ở ĐBBB và cả nước.
Từ thực tiễn hoạt động thuỷ lợi ĐBBB những năm cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 đã cho ta tìm thấy những bài học bổ ích để phục vụ cho công cuộc thuỷ lợi hoá, đổi mới nông thôn ở ĐBBB và nước ta hiện nay.
Trước hết, trên cơ sở những thành quả thăm dò, khảo sát thực địa ở ĐBBB, các kỹ sư, công chính, thuỷ lợi Bắc Kỳ đã nghiên cứu, lập ra các dự án thuỷ lợi, thiết kế sửa chữa, xây dựng các công trình thuỷ lợi ở ĐBBB. Ngày nay, tuy điều kiện làm thuỷ lợi đã có nhiều đổi khác, song nguồn tài liệu lưu trữ trên vẫn có giá trị khoa học và thực tiễn, giá trị kỹ thuật và kinh tế đối với ĐBBB.
Bên cạnh đó, thực tế lịch sử thuỷ lợi ở ĐBBB, cho ta thấy vấn đề tài chính và khoa học công nghệ luôn là yếu tố quyết định đối với chất lượng và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi. Quá trình đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại cho thuỷ lợi ở ĐBBB và cả nước sẽ góp phần tích cực đẩy mạnh CNH, HĐH đổi mới nông thôn, nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Đã đến lúc thuỷ lợi ĐBBB và cả nước phải được xây dựng, phát triển đáp ứng yêu cầu “phòng chống, giảm nhẹ những thiệt hại do thiên tai gây ra”, “cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ, sử dụng tiết kiệm nguồn nước sạch của địa phương, của cả nước và thế giới đang đặt ra”.